Tiểu luận Hợp đồng gia công quốc tế và tổ chức thực hiện hợp đồng

Hình thức nhận nguyên liệu giao thành phẩm Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí gia công. Trong trường hợp này, trong thời gian ch ế tạo, quyền sở hữu về nguyên liệu vẫn thuộc về bên đặt gia công.  Hình thức mua đứt bán đoạn Dựa trên hợp đồng mua bán hàng dài hạn với nước ngoài. Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sẽ mua lại thành phẩm. Trong trường hợp này quyền sở hữu nguyên vật liệu chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công.  Hình thức kết hợp Bên đặt gia công chỉ giao nguyên vật liệu chính, còn bên nhận gia công cung cấp những nguyên vật liệu phụ

pdf34 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7446 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hợp đồng gia công quốc tế và tổ chức thực hiện hợp đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quản trị xuất nhập khẩu- TS. Bùi Thanh Tráng 1 Tiểu luận HỢP ĐỒNG GIA CÔNG QUỐC TẾ VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG Quản trị xuất nhập khẩu- TS. Bùi Thanh Tráng 2 I. CÁC HÌNH THỨC GIA CÔNG XUẤT KHẨU I.1 Theo quyền sở hữu nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất sản phẩm:  Hình thức nhận nguyên liệu giao thành phẩm Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí gia công. Trong trường hợp này, trong thời gian chế tạo, quyền sở hữu về nguyên liệu vẫn thuộc về bên đặt gia công.  Hình thức mua đứt bán đoạn Dựa trên hợp đồng mua bán hàng dài hạn với nước ngoài. Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sẽ mua lại thành phẩm. Trong trường hợp này quyền sở hữu nguyên vật liệu chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công.  Hình thức kết hợp Bên đặt gia công chỉ giao nguyên vật liệu chính, còn bên nhận gia công cung cấp những nguyên vật liệu phụ. I.2 Xét về mặt giá cả gia công  Hợp đồng thực chi thực thanh Bên nhận gia công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ những chi phí thực tế của mình cộng với tiền thù lao gia công.  Hợp đồng khoán Xác định định mức cho mỗi sản phẩm gồm: Chi phí định mức và thù lao định mức. Hai bên sẽ thanh toán với nhau theo giá định mức đó dù chi phí thực tế của bên nhận gia công là bao nhiêu chăng nữa. I.3 Xét về mức độ cung cấp nguyên liệu, phụ liệu  Bên đặt gia công giao toàn bộ nguyên phụ liệu, bán thành phẩm. Trong mỗi lô hàng đều có bảng định mức nguyên phụ liệu chi tiết cho từng sản phẩm mà hai bên đã thỏa thuận và được các cấp quản lý xét duyệt. Người nhận gia công chỉ việc tổ chức sản xuất theo đúng mẫu của khách và giao lại sản phẩm cho khách đặt gia công hoặc giao lại cho người thứ ba theo sự chỉ định của khách. Quản trị xuất nhập khẩu- TS. Bùi Thanh Tráng 3  Bên đặt gia công chỉ giao nguyên liệu chính theo định mức, còn nguyên liệu phụ thì bên nhận gia công tự khai thác theo đúng yêu cầu của khách.  Bên đặt gia công không giao bất cứ nguyên phụ liệu nào cho khách, bên nhận gia công tự lo nguyên phụ liệu để sản xuất hàng hóa theo yêu cầu. I.4. Theo loại hình sản xuất:  Sản xuất chế biến  Lắp ráp, tháo dỡ, phá dỡ  Tái chế  Chọn lọc, phân loại, làm sạch, làm mới  Đóng gói, kẻ ký hiệu  Gia công pha chế II. TRÌNH TỰ HOẠT ĐỘNG GIA CÔNG XUẤT KHẨU II.1 Nghiên cứu thị trường và tìm kiếm khách hàng  Đối với đơn vị kinh doanh quốc tế, việc nghiên cứu thị trường có ý nghĩa rất quan trọng. Trong việc nghiên cứu đó, những nội dung mà công ty cần tập trung nắm vững là: Điều kiện chính trị, thương mại nói chung, luật pháp và chính sách buôn bán, điều kiện về tiền tệ, tín dụng, điều kiện vận tải và giá cước trên thị trường đó; nhu cầu về hàng hoá bao gồm thị hiếu và khối lượng cầu; tình hình cung ở thị trường đó như các hãng cung cấp, tình hình cạnh tranh…  Riêng đối với gia công xuất khẩu hàng may mặc thì công ty cần nghiên cứu đó là thị trường hạn ngạch hay phi hạn ngạch. Nếu là thị trường hạn ngạch phải đệ đơn lên bộ thương mại xin hạn ngạch hay tìm đơn vị trong nước được bộ cấp hạn ngạch để tiến hành uỷ thác gia công.  Đặc thù của gia công hàng may mặc là thực hiện hợp đồng kéo dài do vậy nghiên cứu điều kiện chính trị, thương mại phải có dự đoán trước dựa trên cơ sở thực tế. Nếu điều kiện chính trị ở nước đó không ổn định thì có thể không thu được phí gia công hay hợp đồng bị huỷ bỏ bất kỳ lúc nào.  Mỗi nước đều có chính sách thương mại áp dụng cho từng quốc gia ví dụ: Mỹ xây dựng nên ba loại chính sách áp dụng cho ba loại nước khác nhau trên quan hệ của nước đó với nước Mỹ. Bởi vậy, việc nghiên cứu chính sách buôn bán cũng như hệ thống pháp luật của mỗi thị trường là rất quan trọng. Nó không những quyết định đến hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động gia công xuất Quản trị xuất nhập khẩu- TS. Bùi Thanh Tráng 4 khẩu nói riêng. Chẳng hạn luật pháp của Mỹ quy định hàng may mặc của Việt Nam nếu sản xuất bằng nguyên liệu ngoại nhập thì phải chịu mức thuế là 90%. Do nghiên cứu kỹ chính sách này nên các doanh nghiệp xuất khẩu quyết định chiến lược tìm mọi cách nhập nguyên liệu từ các nước ASEAN gia công xuất khẩu vào thị trường này, nguyên liệu nhập khẩu từ các nước khác thì hạn chế xuất khẩu sang thị trường này bởi thuế suất là 90% sẽ giảm rất nhiều yếu tố cạnh tranh đặc biệt là giá cả. Một vấn đề khác tác động đến gia công xuất khẩu mà công ty cần quan tâm nghiên cứu là : các tập quán liên quan đến lĩnh vực giao nhận, thủ tục tại mỗi cảng giao hàng và kiểm tra hàng hoá lúc nhập hàng.  Sau khi nghiên cứu chính sách buôn bán và hệ thống pháp luật thì công ty thường nghiên cứu dự toán phí gia công, điều kiện tiền tệ tín dụng ở thị trường đó ra sao. Thường thì các công ty thanh toán với nhau bằng một đồng tiền mạnh có giá trị trao đổi quốc tế. TÌM KIẾM BẠN HÀNG  Mục đích là tìm được bạn hàng trong nước và nước ngoài ổn định và đáng tin cậy để lựa chọn được đối tác, công ty không chỉ dựa vào những lời quảng cáo, giới thiệu mà còn tìm hiểu khách hàng và thái độ chính trị, khả năng tài chính, lĩnh vực và uy tín của họ trong kinh doanh.  Khả năng của khách hàng được thể hiện qua hệ thống cơ sở vật chất, tài sản cố định, tài sản lưu động, trạm trại, cửa hàng. Song không phải vì vậy mà kết luận họ có khả năng tài chính, sẵn sàng thanh toán sòng phẳng. Rất nhiều thương gia người nước ngoài vay vốn để mua trang thiết bị, mua nguyên phụ liệu nhờ chúng ta gia công hy vọng rằng sau khi bán hàng sẽ trả tiền cho ta. Kết quả là hàng ra không bán được, ứ đọng vốn, không có tiền trả phí gia công còn chúng ta không có tiền trả lương công nhân. Do đó không nên nghĩ rằng khách hàng chuyển nguyên liệu chịu giá rất lớn và họ không còn lo, huống hồ chúng ta có chút tiền phí gia công mà chấp nhận phương thức thanh toán chuyển tiền. Chính vì suy nghĩ và định hướng đúng đắn mà công ty nên chỉ áp dụng phương thức chuyển tiền với khách hàng quen, có quan hệ lâu dài, còn đối với khách hàng nước ngoài mới đặt hàng công ty buộc phải thanh toán bằng thư tín dụng.  Thái độ uy tín trong kinh doanh của thương gia cho biết mức độ sòng phẳng của họ. Đây là thông tin mà công ty cho là rất quan trọng và đưa thành nguyên tắc với bất kỳ Quản trị xuất nhập khẩu- TS. Bùi Thanh Tráng 5 khách hàng nào. Thông tin này có thể thu được từ khách hàng hay những tổ chức tín dụng. Nếu họ là thương gia có uy tín thì sẽ nâng uy tín của công ty nên rất nhiều. Song ngược lại, uy tín của công ty bị tổn thương và nhiều khi không được thanh toán.  Một nhân tố quan trọng mà công ty tập trung nghiên cứu là triển vọng về lĩnh vực mà họ kinh doanh, phải xem xét kênh phân phối hàng hóa, doanh số bán để xác định đúng đắn khả năng phát triển của đối tác. Điều này quyết định mở rộng mặt hàng kinh doanh và mối quan hệ lâu dài giữa công ty với họ.  Đối với đối tác trong nước việc tìm hiểu có phần đơn giản hơn. Tuy vậy công ty vẫn nắm thông tin về khả năng tài chính, thái độ và uy tín kinh doanh của họ. Việc lựa chọn cuối cùng còn phụ thuộc vào mức độ hiện đại của máy móc, thiết bị và trình độ tay nghề của công nhân, khả năng thực hiện gia công có đúng chất lượng có đúng kỹ thuật và thời hạn hợp đồng hay không. II.2. Đàm phán và ký kết hợp đồng Trong giao dịch ngoại thương các bên thường có sự khác biệt nhau về chính kiến, về pháp luật, về tập quán ngôn ngữ tư duy truyền thống và quyền lợi. Những sự khác biệt đó dẫn đến sự xung đột. Muốn giải quyết xung đột đó, người ta phải trao đổi ý kiến với nhau. Trong hoạt động gia công quốc tế những vấn đề thường trở thành nội dung của các cuộc đàm phán là:  Phẩm chất  Số lượng  Bao bì đóng gói  Giao hàng  Giá cả gia công  Thanh toán  Phạt và bồi thường thiệt hại Ba giai đoạn của đàm phán là: Giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn đàm phán và giai đoạn sau đàm phán. Trong đó giai đoạn chuẩn bị là giai đoạn quan trọng nhất, nó quyết định 80% kết quả của đàm phán. II.3 Nội dung của hợp đồng gia công quốc tế  Hợp đồng gia công quốc tế là sự thoả thuận giữa hai (có quốc tịch khác nhau: bên nhận gia công và bên đặt gia công nhằm sản xuất gia công hay chế biến sản phẩm mới hoặc bán thành phẩm mẫu mã và tiêu chuẩn kỹ thuật do bên đặt gia công quy Quản trị xuất nhập khẩu- TS. Bùi Thanh Tráng 6 định trên cơ sở nguyên vật liệu do bên đặt gia công giao trước. Sau đó bên nhận gia công sẽ được trả một khoản thù lao nhất định.  Hợp đồng gia công quốc tế là một dạng của hợp đồng kinh tế nó mang những nét đặc trưng cho tính chất và loại đối tượng mà hợp đồng này điều chỉnh. Tính chất riêng biệt này được thể hiện hầu hết trong các hợp đồng gia công mà thực chất quan hệ hợp đồng này là làm thuê để nhận thù lao. a) Chủ thể của hợp đồng Cá nhân, pháp nhân hay tổ chức muốn làm chủ thể trong hợp đồng kinh doanh quốc tế, yêu cầu trước tiên phải có năng lực pháp lý. Năng lực này được xác định bằng luật của quốc gia mà chủ thể mang quốc tịch. Do sự quy định của các hệ thống pháp luật là khác nhau, cho nên thường gây ra hiện tượng xung đột pháp luật. b) Khách thể của hợp đồng Đối tượng của hợp đồng mà chủ thể hướng tới nhằm thoả mãn quyền và nghĩa vụ của mình. Trong hợp đồng gia công, đối tượng chính là nguyên vật liệu và sản phẩm gia công được dịch chuyển qua biên giới. Đối tượng của hợp đồng gia công phải không được vi phạm danh mục hàng hoá được phép xuất nhập khẩu theo quy định 96/TM –XNK ngày 14-2-1995. II.3.1. Các điều khoản của hợp đồng:  Phần mở đầu: Gồm số hợp đồng, tên gọi của hợp đồng, tên và địa chỉ giao dịch, quốc tịch, số telephone, tên tài khoản mở tại ngân hàng… của cá bên nhận gia công và bên đặt gia công.  Điều khoản tên và số lượng thành phẩm: Tên và số lượng thành phẩm phải được ghi cụ thể, chính xác để tránh nhầm lẫn, đảm bảo tính chính xác của hàng hoá. Nếu hợp đồng thuê gia công nhiều loại hàng thì phải ghi cụ thể tên và số lượng của từng loại.  Các điều khoản về phẩm chất quy cách: Là điều khoản rất quan trọng để xác định đối tượng của hợp đồng. Thường thì phẩm chất quy cách được quy định chi tiết tỉ mĩ trong hợp đồng gia công hoặc quy định tương tự như mẫu mã hai bên đã thoả thuận có xác định bằng văn bản của cơ quan kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm. Hai bên thoả thuận chọn cơ quan kiểm nghiệm của nước đặt gia công hay nước nhận gia công. Văn bản kiểm nghiệm phẩm chất và quy cách thành phẩm được mỗi bên giữ một bản, cơ quan kiểm nghiệm giữ một bản. Quản trị xuất nhập khẩu- TS. Bùi Thanh Tráng 7  Điều khoản về nguyên vật liệu: nguyên vật liệu là đối tượng của hợp đồng gia công thường toàn bộ nguyên vật liệu để sản xuất, chế biến sản phẩm gia công nhưng cũng có khi chỉ nguyên vật liệu chính. Điều khoản về nguyên vật liệu phải được quy định cụ thể về loại nguyên vật liệu, tên nguyên vật liệu, số lượng phẩm chất…và tỷ lệ tiêu hao nguyên vật liệu.  Điều khoản về giá cả: Đây là điều khoản cơ bản của tất cả các loại hợp đồng. Trong hợp đồng gia công cho nước ngoài, việc quy định giá cả hết sức chi tiết, cụ thể đối với từng loại sản phẩm, từng công đoạn.  Điều khoản về phương thức thanh toán: Là điều khoản quan trọng được các bên quan tâm thoả thuận khi ký kết hợp đồng. Thông thường trong hợp đồng gia công cho nước ngoài áp dụng phương thức thanh toán bằng ngoại tệ mạnh và theo thủ tục L/C.  Điều khoản về thời hạn giao hàng và hình thức giao hàng: Điều khoản này quy định chính xác thời hạn giao nguyên vật liệu chính và phụ, thời hạn giao sản phẩm. Đây là điều khoản quan trọng đảm bảo cho hợp đồng được thực hiện dúng thời hạn, không gây mất ổn định trong sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên.  Điều khoản về kiểm tra hàng hoá: Đây là điều khoản quan trọng quy định việc kiểm tra nguyên vật liệu, thành phẩm thuộc cơ quan nào. Trong trường hợp hai bên đã thoả thuận cơ quan kiểm tra thuộc phía Việt Nam mà vào thời điểm kiểm tra bên đặt gia công lại cử chuyên gia sang thì quyết định của chuyên gia được coi là quyết định cuối cùng với điều kiện quyết định đó phải được lập thành văn bản. Khi tiến hành kiểm tra, các chuyên gia sẽ căn cứ vào những điều kiện về quy cách phẩm chất đã được quy định trong hợp đồng.  Điều khoản về phạt hợp đồng: Đây là điều khoản mang tính chế tài đảm bảo cho hợp đồng được thực hiện. Trong hợp đồng gia công cho nước ngoài, điều khoản về phạt hợp đồng được quy định với việc vi phạm thời gian giao nhận hàng hóa. Về việc quy định mức phạt cho hai bên phải được ghi cụ thể, rõ ràng trong hợp đồng làm căn cứ cho việc thực hiện trong trường hợp một trtong hai bên bị phạt hợp đồng. Quản trị xuất nhập khẩu- TS. Bùi Thanh Tráng 8  Điều khoản về trọng tài: Đây là điều khoản rất quan trọng là cơ sở cho việc xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Trong điều khoản này, các bên thoả thuận và quy định một cơ quan giải quyết tranh chấp. Nếu trong điều khoản này không quy định cụ thể thì khi có tranh chấp, vụ việc được đưa ra trọng tài quốc tế.  Điều khoản về hiệu lực của hợp đồng: Quy định các diều kiện và thời hạn để hợp đồng bắt đầu có hiệu lực và hết hiệu lực. Thông thường, hợp đồng có hiệu lực ngay kể từ khi hai bên ký kết, song đối với hợp đồng gia công xuất khẩu thì thời điểm hợp đồng có hiệu lực là thới điểm sau khi thông qua một số thủ tục bắt buộc (nhận được giấy phép nhập khẩu… ) Ngoài ra, trong hợp đồng gia công cho nước ngoài còn có những điều khoản khác để phục vụ cho quá trình thực hiện hợp đồng (ví dụ như điều khoản bảo vệ máy móc thiết bị của bên nhận gia công trong trường hợp thuê của bên đặt gia công theo hợp đồng leasing… ). Những diều khoản này có thể quy định hoặc không quy định tuỳ theo từng hợp đồng cụ thể và không phải là điều khoản bắt buộc. II.3.2 Tổ chức gia công hàng xuất khẩu Các công việc cụ thể mà doanh nghiệp làm hàng gia công xuất khẩu phải tiến hành tuỳ thuộc vào từng hợp đồng cụ thể. Thông thường sau khi ký kết hợp đồng doanh nghiệp làm gia công phải tiến hành các công việc sau:  Xin giấy phép nhập khẩu: Sau khi ký hợp đồng gia công, bên đặt gia công phải tiến hành giao nguyên phụ liệu để bên nhận gia công tiến hành gia công. Bên nhận gia công phải tiến hành xin giấy phép của Bộ thương mại để đưa số nguyên phụ liệu của bên đặt gia công vào trong nước.  Mở và kiểm tra L/C: Đối với trường hợp thanh toán qua thư tín dụng.  Tổ chức gia công chuẩn bị để giao hàng: Đây là vấn đề mấu chốt trong quá trình thực hiện hợp đồng gia công, nó quyết định uy tín cũng như đảm bảo hợp đồng. Các vấn đề chủ yếu bao gồm: Tiến hành gia công thử, tổ chức gia công, đóng gói bao bì hàng xuất khẩu, kẻ vẽ ký mã hiệu, kiểm tra chất lượng hàng hoá.  Thuê tàu chở hàng (hoặc uỷ thác thuê tàu) theo các điều kiện ghi trong hợp đồng. Quản trị xuất nhập khẩu- TS. Bùi Thanh Tráng 9  Làm thủ tục hải quan: bên nhận gia công phải khai báo hàng hoá lên tờ khai để cơ quan hải quan kiểm tra  Giao hàng hoá lên tàu hoặc đại lý vận tải  Làm thủ tục thanh toán  Khiếu nại và giải quyết khiếu nại III. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG GIA CÔNG XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM Lâu nay vẫn có ý kiến cho rằng Việt Nam bị rơi vào “bẫy gia công”, rằng gia công chỉ là bán mồ hôi với giá rẻ, công đoạn gia công là công đoạn tạo ra “giá trị gia tăng” thấp nhất trong chuỗi giá trị, và vì thế cần chấm dứt chuyện này càng sớm càng tốt. Nhưng nếu đi sâu phân tích ta dễ dàng nhận thấy gia công không phải là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế Việt Nam, mà trái lại, chính thị trường lao động Việt Nam với lợi thế giá nhân công rẻ là cơ sở thu hút các hợp đồng gia công xuất khẩu từ nước ngoài. Đó là một thực tế phản ánh tình hình gia công xuất khẩu đã và đang tồn tại ở Việt Nam. III.1 Kinh tế gia công là xu hướng của kinh tế toàn cầu Trên thực tế, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đang làm gia công, chứ không riêng gì Việt Nam. Đó là xu hướng của nền kinh tế toàn cầu hóa. Rất khó tìm ra một nước nào đó tự mình làm hết mọi công đoạn sản xuất các sản phẩm hoàn chỉnh. Mỗi nước chỉ thực hiện một số công đoạn nhất định, và đó chính là gia công. Ví dụ nếu Việt Nam nhập linh kiện điện tử từ Thái Lan, có nghĩa là Thái Lan đang gia công linh kiện, còn Việt Nam thực hiện công đoạn lắp ráp. Kể cả các nước phát triển như Đức, Nhật… cũng vậy. Họ hoặc sản xuất linh kiện, hoặc lắp ráp từ linh kiện do các nước khác sản xuất. Chiếc Mercedes-Benz “made in Germany” thực chất được lắp ráp từ linh kiện do hàng ngàn nhà máy tại khắp các nước trên thế giới cung cấp. Như thế bản thân việc gia công không những không chứng tỏ mức độ phát triển thấp của Việt Nam, mà trái lại, nó chứng tỏ kinh tế Việt Nam đã hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Không thể cho rằng như thế là Việt Nam quá phụ thuộc vào xuất nhập khẩu, rằng đây là khuyết điểm cần khắc phục để kinh tế Việt Nam“cất cánh”. Để xét xem nền kinh tế phụ thuộc vào thị trường nước ngoài ở mức nào thì không nên nhìn vào kim ngạch xuất khẩu, mà phải nhìn vào con số GDP do khu vực sản xuất hàng xuất khẩu tạo ra trong tổng GDP của toàn nền kinh tế. Kim ngạch xuất nhập khẩu chỉ thể hiện mức độ gắn kết của kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, còn tỷ trọng GDP của khu vực sản xuất xuất khẩu trong tổng GDP của toàn bộ nền kinh tế quốc dân thể hiện mức độ phụ thuộc của nền kinh tế quốc dân vào thị trường nước ngoài. Quản trị xuất nhập khẩu- TS. Bùi Thanh Tráng 10 Sự gắn kết và phụ thuộc này mang những ý nghĩa khác nhau. Với thời gian, nền kinh tế Việt Nam sẽ ngày càng gắn với kinh tế thế giới như một thành phần hữu cơ (biểu hiện qua kim ngạch xuất nhập khẩu, cũng như tỷ trọng GDP của khu vực sản xuất hàng xuất khẩu trong tổng GDP của toàn nền kinh tế, ngày một tăng), nhưng đó là một xu thế không thể đảo ngược, chứ tuyệt nhiên không phải là cái gì đó yếu kém cần ngăn chặn hay từ bỏ. III.2 Nguy cơ biến thành bãi thải công nghệ rác Kinh tế gia công không nhất thiết biến đất nước thành bãi thải công nghệ. Việc công nghệ nào được sử dụng – Công nghệ cao hay công nghệ thấp là do hiệu quả kinh tế quyết định, và không phải lúc nào sử dụng công nghệ cao cũng có hiệu quả hơn dùng công nghệ thấp. Nếu nói công nghệ tiêu tốn nhiều năng lượng hoặc gây ô nhiễm môi trường, thì đó không phải là hậu quả mang lại của nền kinh tế gia công, mà là do sơ hở trong qui hoạch, quản lý của các cơ quan chức năng, hoặc do lỗi của các đơn vị sản xuất vì lợi ích cá nhân đã nhắm mắt làm lơ, sản xuất không đi đôi với công tác bảo vệ môi trường. III.3 Kinh tế gia công không đảm bảo tốt đời sống vật chất cho người lao động Thường có quan điểm cho rằng nền kinh tế gia công là nền kinh tế thâm dụng lao động, lương trả cho công nhân chỉ đủ sống ở mức tằn tiện… nhận định như vậy là đã lộn ngược vấn đề, lấy nguyên nhân làm hệ quả. Về bản chất, gia công không đương nhiên đồng nghĩa với thâm dụng lao động. Mức độ thâm dụng lao động phụ thuộc vào giá nhân công của nước sở tại ở mỗi giai đoạn nhất định. Ví dụ cụ thể nếu Việt Nam thuê doanh nghiệp Đức sản xuất linh kiện xe hơi, hoặc lắp ráp hàng điện tử, họ sẽ dùng công nghệ hiện đại đòi hỏi rất ít lao động sống. Đó là do nhân công của Đức đắt đỏ, nên dùng máy móc sẽ có lợi hơn. Với các nước kém phát triển thì ngược lại, dùng lao động nhân công có lợi hơn dùng lao động máy móc. Do giá nhân công ở đây rẻ nên các nước khác phát triển sẽ thường chủ động giao công đoạn đòi hỏi nhiều sức lao động cho các nước này thực hiện. Như thế giá lao động rẻ là cái có trước, còn cách thức gia công thâm dụng lao động là cái có sau. Nhưng người ta rất hay bị hiện tượng đánh lừa, cứ nghĩ rằng gia công là thâm dụng lao động. Do có thể trả lương thấp và áp lực của Việc cạnh tranh nên các doanh nghiệp có xu hướng giảm giá gia công tới mức tối thiểu, miễn sao đạt
Luận văn liên quan