Ngày 6/1/1957, bao thuốc lá Thăng Long đầu tiên được xuất xưởng đánh dấu sự ra
đời của ngành thuốc lá và trở thành ngày truyền thống của CBCNV Nhà máy thuốc lá
Thăng Long. Trải qua 45 năm xây dựng và trưởng thành với những thành tựu đáng ghi
nhận.
Nhà máy thuốc lá Thăng Long trực thuộc Tổng công ty thuốc lá Việt nam_ là một
trong những doanh nghiệp sản xuất thuốc lá lớn nhất của Tổng công ty thuốc lá Việt
nam. Trong những năm qua, Nhà máy luôn vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch đề ra, đóng
góp cho Nhà nước một lượng ngân sách lớn, tăng lợi nhuận cho Nhà máy và đảm bảo
đời sống cho CBCNV Nhà máy.
Với những thành tựu đó, Nhà máy luôn được Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu
cao quý, xứng đáng là Nhà máy đầu tàu của Tổng công ty thuốc lá Việt nam. Thành tích
đó là một quá trình phát triển và sự cố gắng nỗ lực của CBCNV Nhà máy.
Trong quá trình thực tập tại Nhà máy thuốc lá Thăng Long, tôi đã đi khảo sát thực tế
thực trạng của Nhà máy trong giai đoạn hiện nay và những năm gần đây về tổ chức quản
lý, về các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy. Do điều kiện không cho
phép nên tôi chỉ khảo sát được một số lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh, không
tìm hiểu hết được tất cả các lĩnh vực.
53 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1921 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Khảo sát được một số lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh tại nhà máy thuốc lá Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Khảo sát được một số lĩnh vực hoạt động
sản xuất kinh doanh tại nhà máy thuốc lá
Thăng Long
Lời mở đầu
Ngày 6/1/1957, bao thuốc lá Thăng Long đầu tiên được xuất xưởng đánh dấu sự ra
đời của ngành thuốc lá và trở thành ngày truyền thống của CBCNV Nhà máy thuốc lá
Thăng Long. Trải qua 45 năm xây dựng và trưởng thành với những thành tựu đáng ghi
nhận.
Nhà máy thuốc lá Thăng Long trực thuộc Tổng công ty thuốc lá Việt nam_ là một
trong những doanh nghiệp sản xuất thuốc lá lớn nhất của Tổng công ty thuốc lá Việt
nam. Trong những năm qua, Nhà máy luôn vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch đề ra, đóng
góp cho Nhà nước một lượng ngân sách lớn, tăng lợi nhuận cho Nhà máy và đảm bảo
đời sống cho CBCNV Nhà máy.
Với những thành tựu đó, Nhà máy luôn được Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu
cao quý, xứng đáng là Nhà máy đầu tàu của Tổng công ty thuốc lá Việt nam. Thành tích
đó là một quá trình phát triển và sự cố gắng nỗ lực của CBCNV Nhà máy.
Trong quá trình thực tập tại Nhà máy thuốc lá Thăng Long, tôi đã đi khảo sát thực tế
thực trạng của Nhà máy trong giai đoạn hiện nay và những năm gần đây về tổ chức quản
lý, về các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy. Do điều kiện không cho
phép nên tôi chỉ khảo sát được một số lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh, không
tìm hiểu hết được tất cả các lĩnh vực.
PhầnI: Tổng quan về tình hình nhà máy
thuốc lá Thăng Long.
1. Sự hình thành và các giai đoạn phát triển của Nhà máy:
1.1. Sự hình thành Nhà máy:
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, bắt tay vào
công cuộc xây dựng CNXH, trở thành hậu phương lớn, hậu thuẫn một cách chắc chắn và
tin cậy cho tiền tuyến lớn miền Nam đang kiên cường đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng
đất nước. Thời kỳ 1955-1957 được coi là thời kỳ khôi phục kinh tế. Trung ương Đảng
quyết định: “ Cần chú ý phục hồi và xây dựng một số công xưởng chế tạo hàng cần thiết
cho đời sống của nhân dân, xưởng sửa chữa giao thông vận tải và một số công xưởng
thuộc công nghiệp nhẹ, bỏ vốn ít mà hiệu quả nhanh để giải quyết những vấn đề cấp
thiết cho đời sống nhân dân”. Song trong thực tế việc trồng và sản xuất thuốc lá ở miền
Bắc chủ yếu được hình thành một cách tự phát, tồn tại trong thế khép kín, hạn hẹp,
không đủ cung ứng cho chu cầu tiêu thụ ngày càng gia tăng của nhân dân. Một số hãng
thuốc lá tư nhân lạinắm quyền độc quyền sản xuất, kinh doanh tự ý thao túng thị trường,
gây không ít khó khăn cho đời sống của nhân dân.
Thực tiễn đặt vấn đề, Nhà nước cần phải nhanh chóng quản lý việc sản xuất thuốc lá.
Chỉ có nắm lấy quyền quản lý chúng ta mới đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của cán bộ,
bộ đội và quần chúng lao động, mặt khác, ngăn chặn sự lũng đoạn của các hãng sản xuất
thuốc lá tư nhân. Vấn đề xây dựng một nhà máy sản xuất thuốc lá có quy mô đã trở
thành một nhiệm vụ cấp bách. Nhận thức đúng yêu cầu khách quan đó, giữa năm 1955,
theo Quyết định số 2990-QĐ của Phủ Thủ Tướng, Vụ quản lý xí nghiệp đã cử đồng chí
Trịnh Văn Ty cùng một số cán bộ khác khảo sát tình hình, lập hồ sơ nghiên cứu để
nhanh chóng xây dựng một nhà máy thuốc lá quốc doanh.
Ngay lập tức, nhóm khảo sát bắt tay vào công việc. Vừa lục tìm lại các tài liệu cũ thời
thuộc Pháp về tình hình phân bố và trồng trọt, kỹ thuật chế biến và quy trình công nghệ
sản xuất thuốc lá, nhóm khảo sát vừa trực tiếp đến các địa phương để xem xét, tìm hiểu
khả năng thực tế trong việc khoanh vùng sản xuất nguyên liệu cho nhà máy. Sau những
ngày làm việc say mê và trách nhiệm, nhóm khảo sát đã thống nhất và đi đến kết luận:
hoàn toàn có thể xây dựng một nhà máy quốc doanh có quy mô lớn. Nhóm khảo sát
cũng đã xây dựng được một đề cương ban đầu, đề nghị chọn địa điểm xây dựng là Hà
Nội hoặc Thanh Hoá với một máy cuốn có công suất dự kiến ban đầu là 1200 điếu/phút.
Chấp thuận những kiến nghị trên đây của đoàn khảo sát, Bộ Công nghiệp khẳng định:
để tiến tới quy hoạch chính thức địa điểm xây dựng nhà máy lâu dài, trước mắt, cần tận
dụng một số cơ sở xí nghiệp cũ ở Hà Nội mà chúng ta chưa có điều kiện khôi phục để
làm nơi nghiên cứu phương pháp gia công các loại thuốc hiện có, tổ chức sản xuất thử
để rút kinh nghiệm.
Đầu tiên, địa điểm được chọn để thử nghiệm là nhà máy bia Hà nội. Nhưng khi công
việc sắp sửa bắt đầu thì tháng 4 năm 1956, Bộ Công nghiệp lại có quyết định khôi phục
lại nhà máy bia, nhóm khảo sát đành phải tìm đến một địa điểm khác.
Sau một thời gian tìm kiếm, cơ sở nhà máy Diêm cũ được chọn làm địa điểm sản xuất
thử. Ngày 18 tháng 6 năm 1956, Cục Công nghiệp nhẹ thuộc Bộ Công nghiệp ra quyết
định thành lập Ban chuẩn bị sản xuất thuốc lá. Ngày 4 tháng 7 năm 1956, Cục Công
nghiệp nhẹ đề nghị Bộ Công nghiệp xin được khắc con dấu cho một số xí nghiệp trong
đó có nhà máy thuốc lá Hà nội.
Kết quả sản xuất thử đã khẳng định thực tế và triển vọng mở rộng công nghệ thuốc lá.
Cuối năm 1956, Nhà nước quyết định chuyển bộ phận sản xuất từ nhà máy Diêm về khu
vực tiểu thủ công nghệ Hà Đông, nhằm ổn định và phát triển sản xuất. Ngày 20 tháng 11
năm 1956, Cục Công nghiệp nhẹ chính thức nhận địa điểm mới ở Hà Đông và bàn giao
cho Ban chuẩn bị sản xuất thuốc lá.
Tại địa điểm mới, dường như mọi việc phải bắt đầu từ đầu. Khu tiểu thủ công nghệ
Hà Đông vốn là khu tôn 14 gian do Mỹ viện trợ cho Pháp, lâu ngày bị bỏ hoang. Nhưng
được sự giúp đỡ tận tình và chu đáo của tỉnh uỷ Hà Đông và nhân dân địa phương, toàn
bộ cán bộ công nhân viên nhà máy với tinh thần làm việc “bằng hai” đã không quản ngại
khó khăn, lao động cật lực, cải tạo những gian nhà đổ nát kia thành xưởng máy. Cuối
năm 1956, 4 máy sản xuất thuốc lá và một số phụ tùng nhãn hiệu Trung Quốc đã được
đưa từ khu triển lãm Yết Kiêu về. Lực lượng thì quá mỏng, công việc lại bề bộn, trình độ
kỹ thuật cơ khí còn yếu kém, phụ tùng lắp đặt vừa thiếu vừa không đồng bộ... nhưng các
cán bộ kỹ thuật đã kiên trì tìm tòi để cuối cùng hình thành một dây chuyền sản xuất: một
máy thái, một máy tước cuộng, một máy cuốn, bảo đảm chu trình sản xuất của nhà máy.
Song song với việc chuẩn bị cho sự vận hành của quá trình sản xuất, nhà máy đẩy
mạnh đầu tư kỹ thuật. Bộ phận nghiên cứu kỹ thuật của nhà máy tiếp tục nghiên cứu có
chiều sâu các khâu kỹ thuật: lên men, thái sợi, sấy sợi, phun hương liệu... đồng thời tìm
các giải pháp để diệt trừ mối mọt trong các kho chứa nguyên liệu thuốc. Các công trình
nghiên cứu của nhà máy cũng nhận được sự phối hợp của viện vệ sinh dịch tễ, Tổng
công ty Lương thực nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm, vừa giữ gìn môi trường sinh
thái.Vóc vẻ của một cơ sở sản xuất thuốc lá đã thực sự được hình thành ở những đường
nét cơ bản nhất.
Như vậy, sau hơn một năm vừa khảo sát tình hình vừa chuẩn bị, qua 3 lần di chuyển
địa điểm, từ hai bàn tay trắng, vượt qua muôn vàn khó khăn, đứa con đầu lòng của
ngành thuốc lá XHCN VN đã chào đời. Ngày 1 tháng 6 năm 1957 đã trở thành ngày lịch
sử của Nhà máy .
1.2. Quá trình phát triển qua các giai đoạn của Nhà máy:
Quá trình hình thành và phát triển của Nhà máy được chia ra làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1956-1975: Đây là giai đoạn đầu sau khi Nhà máy chính thức thành lập,
toàn bộ cán bộ công nhân Nhà máy khẩn trương bắt tay vào lao động sản xuất để có
được những bao thuốc đầu tiên kịo thời phục vụ nhân dân nhân dịp Tết nguyên đán
(1957). Tính từ 6/1/1957 đến ngày 30/2/1957 Nhà máy đã giao nộp cho Công ty phát
hành cấp 1 là 100000 bao thuốc lá Thăng Long, vượt chỉ tiêu kế hoạch của Bộ công
nghiệp giao.
Tháng 4 năm 1957, Nhà nước trang bị cho Nhà máy 3 máy cuốn điếu Tiệp Khắc, 1
máy đóng bao Trung Quốc. Năm 1958 cấp thêm 1 máy thái Tiệp Khắc và sau đó lại bổ
sung hợp đồng 1 máy thái, 1 máy cuốn Tiệp Khắc nhờ đó mà cơ cấu ngành nghề của
Nhà máy đi vào ổn định.
Đến năm 1964, giá trị tổng sản lượng của Nhà máy đạt 30968458 đồng tăng gấp hai
lần tổng sản lượng năm 1958 và 18 lần năm 1957. Ngoài việc thoả mãn nhu cầu trong
nước Nhà máy còn dành một khối lượng lớn để xuất khẩu (năm 1964 xuất khẩu sang các
nước bạn là 31117 bao).
Năm 1966, chiến tranh xâm lược của Mỹ mở rộng ra miền Bắc, trong tình thế khẩn
trương Đảng bộ Nhà máy xác định “Phải coi sản xuất như chiến đấu, coi xí nghiệp như
chiến trường, coi như mệnh chiến đấu, từ đó vượt qua mọi khó khăn trong bất cứ tình
huống nào với các biện pháp tích cực”. Trong lúc này để sản xuất ổn định và phát triển
cần bảo vệ lực lượng lao động và phương tiện vật chất kỹ thuật.
Từ giữa năm 1966, Nhà máy chuyển sang phương án sơ tán. Bộ phận thứ nhất chuyển
lên Lạng Sơn xây dựng hoàn chỉnh khu sản xuất T2, bộ phận thứ 2 lên Ba Thá lập cơ sở
T3. Năm 1967 Nhà máy xây dựng thêm cơ sở sản xuất T4 ở khu lăng Hoàng Cao Khải
và cơ sở T5 ở Kim Anh-Vĩnh Phúc.
Sau 20 năm phấn đấu không mệt mỏi đã cho thấy một Thăng Long vừa dũng cảm
trong chiến đấu vừa năng động trong sản xuất kinh tế. Sức sống Thăng Long là sức sống
tập thể đoàn kết, chia sẻ ngọt bùi, cùng phát huy trí tuệ và sự khéo léo của người công
nhân yêu lao động.
- Giai đoạn từ 1975 đến 1986:
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ ba, hàng nghìn sáng kiến khoa học kỹ thuật được đề
xuất, trong đó có 314 sáng kiến được áp dụng, làm lợi cho Nhà máy 2355433 đồng. Giá
trị sản phẩm đạt mức trung bình là 200 triệu bao/năm, riêng năm 1985 đạt 235980000
bao. Điều đáng chú ý là sản phẩm Thăng Long vừa đa dạng về chủng loại, vừa đáng tin
cậy về chất lượng, các mặt hàng thuốc lá đầu lọc xuất hiện ngày càng nhiều và chiếm tỷ
trọng đáng kể trong cơ cấu sản phẩm.
- Thời kỳ đổi mới (1986 đến nay):
Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, Đảng khởi xướng chuyển sang
nền kinh tế thị trường, xoá bỏ chế độ độc quyền phân phối thuốc lá từ năm 1987 làm cho
thị trường có nhiều thay đổi và biến đổi lớn. Đã làm cho Nhà máy lâm vào tình trạng bế
tắc, sản lượng năm 1986 là 255,066 triệu bao xuống còn 171,730 triệu bao trong năm
1989, nhịp độ sản xuất cùng với khả năng tiêu thụ đều giảm, lao động dư thừa so với
nhu cầu sản xuất nhưng đây là tình trạng chung của các doanh nghiệp lúc bấy giờ. Với
sự nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên, Nhà máy đã vượt qua thử thách đó. Đồng
thời để theo kịp sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ, Nhà máy đã nhập
hàng loạt thiết bị mới, do vậy số lượng sản phẩm sản xuất tăng lên nhanh chóng. Năm
1992 là 130,646 triệu, năm 1994 là 156,345 triệu bao, tỷ lệ thuốc lá đầu lọc năm 1992
chiếm 47,77% tới năm 1994 là 82%.
Sự nỗ lực vượt bậc đã đưa Thăng Long trở thành một trong những cơ sở sản xuất năng
động và có hiệu quả trong cơ chế thị trường. Năm 1991, doanh thu của Nhà máy là 150
tỷ đồng trong đó nộp ngân sách là 52,74 tỷ đồng, năm 1995 doanh thu đã lên tới 526,827
tỷ đồng (nộp ngân sách là 215,645 tỷ đồng). Đến năm 2000, doanh thu đạt 583,904 tỷ
đồng (nộp ngân sách 227,024 tỷ đồng), năm 2001 doanh thu đạt 616,000 tỷ đồng (nộp
ngân sách 227,500 tỷ đồng).
Về sự phát triển đầu tư, chưa tính đến công trình hợp tác của Dunhill, Nhà máy cơ bản
đã hoàn thiện và đưa vào sử dụng có hiệu quả các công trình đầu tư theo chiều sâu, theo
luận chứng kinh tế kỹ thuật 1991-1995 với số vốn là 78 tỷ đồng. Năm 1996, Nhà máy đã
có 51 sáng kiến làm lợi 380 tỷ đồng. Hiện nay, Nhà máy đang mở rộng theo hướng sản
xuất kinh doanh bằng cách hợp tác với Rothmans của Anh quốc để lập dây chuyền sản
xuất thuốc lá Dunhill tại Nhà máy. Hợp tác với hãng Tobaco và BAT (Bristish American
Tobaco).
Để phục vụ chủ trương gián tem thuế các sản phẩm thuốc lá đều áp dụng từ ngày
01/04/2000, Nhà máy đã tự nghiên cứu, thiết kế chế tạo thành công máy dán tem cho
thuốc lá bao cứng. Sáng kiến này đã tiết kiện được một lượng ngoại tệ đáng kể thay thế
cho việc nhập thiết bị từ nước ngoài, duy trì và phát triển tốt dây chuyền công nghệ chế
biến sợi hiện đại của Trung Quốc đã đáp ứng cho sản xuất thuốc lá bao và hỗ trợ nhu cầu
nguyên liệu cho các doanh nghiệp.
1.3. Chức năng, nhiệm vụ của Nhà máy:
Chức năng và nhiệm vụ của Nhà máy là sản xuất các loại thuốc lá có và không có đầu
lọc để từng bước đưa sản phẩm thuốc lá vào thị trường. Do đó đòi hỏi Nhà máy phải
từng bước cụ thể hoá nhiệm vụ chủ yếu này theo các bước:
- Từng bước củng cố và phát triển thị trường không những trong nước mà còn hướng
tới xuất khẩu.
- Từng bước nâng cao trình độ, tay nghề của đội ngũ cán bộ công nhân viên để nắm
bắt kịp thời công nghệ mới của thế giới nhằm thúc đẩy sự phát triển của Nhà máy
2. Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Nhà máy:chức năng, nhiệm vụ:
( xem sơ đồ trang bên)
Bộ máy quản lý của Nhà máy được tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng tức là
người thủ trưởng được sự giúp sức của các phòng ban chức năng, các chuyên gia, các
hội đồng tư vấn trong xác định phương hướng nghiên cứu thực hiện, đề xuất khi được
thủ trưởng quyết định đồng ý sẽ biến thành mệnh lệnh xuống cấp dưới.
Ban giám đốc: Bao gồm Giám đốc, Phó giám đốc kinh doanh và Phó giám đốc kỹ
thuật.
- Giám đốc: Là người được Nhà máy giao nhiệm vụ quản lý Nhà máy, là người chỉ
huy cao nhất có nhiệm vụ quản lý toàn diện, chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với Nhà
nước về tất cả các lĩnh vực kinh doanh của Nhà máy.
- Phó giám đốc kinh doanh: có nhiệm vụ tổ chức mạng lưới giao dịch, nắm vững tình
hình để phục vụ đầu ra.
- Phó giám đốc kỹ thuật: Có trách nhiệm tổ chức chỉ huy toàn bộ quá trình sản xuất
và công tác kỹ thuật trong Nhà máy.
Các phòng chức năng: Được phân công chuyên môn hoá theo chức năng quản lý,
có nhiệm vụ tham mưu giúp việc cho Ban giám đốc bao gồm:
- Phòng kế hoạch vật tư: gồm 1 trưởng phòng và 6 nhân viên chức năng: tham mưu
cho Ban giám đốc về công tác kế hoạch sản xuất kinh doanh của Nhà máy.
Nhiệm vụ: lập kế hoạch sản xuất dài hạn trong năm, quý, tháng; điều hoà sản xuất
theo kế hoạch thị trường, định mức kỹ thuật, thống kê theo công tác tiết
kiệm.
- Phòng Kỹ thuật cơ điện: gồm trưởng phòng, phó phòng và 7 nhân viên
Chức năng: giúp việc cho Ban giám đốc về công tác kỹ thuật, quản lý máy móc
thiết bị điện, hơi, nước lạnh.
Nhiệm vụ: Theo dõi quản lý toàn bộ trang thiết bị kỹ thuật cơ khí, thiết bị chuyên
dùng điện, hơi, nước lạnh cả về số lượng và chất lượng trong quá trình
sản xuất. Lập kế hoạch về phương án đầu tư chiều sâu, phụ tùng thay
thế, đào tạo thợ cơ khí.
- Phòng KCS: gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và 33 nhân viên.
Chức năng: Thực hiện giúp Ban giám đốc về việc đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Nhiệm vụ: Tiến hành kiểm tra, giám sát về chất lượng nguyên liệu, vật tư, vật liệu
từ khi đưa về Nhà máy, giám sát chất lượng trên từng công đoạn dây
chuyền, phát hiện sai sót để Ban giám đốc chỉ thị khắc phục, kiểm tra
chất lượng khi xuất kho.
- Phòng kỹ thuật công nghệ: gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và 10 nhân viên.
Chức năng: Giúp việc cho Ban giám đốc về công tác kỹ thuật sản xuất.
Nhiệm vụ: Chỉ thị trực tiếp của Giám đốc và nhận thực hiện việc quản lý chất
lượng sản phẩm, chất lượng nguyên vật liệu, vật tư, hương liệu trong
quá trình sản xuất. Nghiên cứu phối chế sản phẩm mới cả nội dung và
hình thức phù hợp với thị hiếu từng vùng, quản lý quy trình công nghệ
tại Nhà máy.
- Phòng tài vụ: gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và 11 nhân viên.
Chức năng: Tham gia giúp việc về mặt tài chính kế toán của Nhà máy.
Nhiệm vụ: Tổ chức quản lý về mọi mặt hoạt động của Nhà máy có liên quan đến
công tác tài chính kế toán như: thu, chi, công nợ, giá thành...
- Phòng tổ chức: bao gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và 2 nhân viên.
Chức năng: Giúp việc và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc về công tác lao
động- tổ chức, an ninh- quốc phòng.
Nhiệm vụ: Giúp Ban giám đốc quản lý và xây dựng phương án công tác tổ chức
lao động, tiền lương, bảo hộ lao động, an toàn và vệ sinh lao động.
- Phòng nguyên liệu:
Chức năng: Tham mưu cho Ban giám đốc về công tác nguyên vật liệu thuốc lá theo
yêu cầu sản xuất kinh doanh.
Nhiệm vụ: Về nông nghiệp nghiên cứu thổ nhưỡng, giống thuốc thực nghiệm; tổ
chức gieo trồng theo kế hoạch.
- Phòng tài chính:
Chức năng: Giúp Giám đốc về tất cả các công việc liên quan đến công việc hành
chính sự nghiệp của Nhà máy.
Nhiệm vụ: Quản lý về văn thư, lưu trữ về tài liệu, bảo mật, đối nội, đối ngoại, quản
lý công tác xây dựng cơ bản và hành chính quản trị.
- Phòng tiêu thụ:
Chức năng: Tham mưu cho Ban giám đốc về công tác tiêu thụ sản phẩm.
Nhiệm vụ: Lập kế hoạch tiêu thụ từng vùng, miền dân cư, kết hợp phòng thị trường
mở rộng diện tích tiêu thụ, thực hiện hợp đồng với khách hàng. Tổng
hợp báo cáo kết quả tiêu thụ về chất lượng chủng loại theo quy định
để Ban giám đốc đánh giá và quyết định phương hướng sản xuất kinh
doanh.
- Phòng thị trường:
Chức năng: Tham mưu giúp việc cho ban lãnh đạo Nhà máy về công tác thị trường.
Nhiệm vụ: Theo dõi phân tích diễn biến tình hình thị trường qua bộ phận nghiên
cứu thị trường và nhóm tiếp thị, tham gia hoạt động Marketing, tìm
các hình thức quảng cáo, tham gia thiết kế sản phẩm mới, tham gia các
hội chợ triển lãm...
Để phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh, cơ cấu tổ chức sản xuất của Nhà
máy được chia thành các phân xưởng sản xuất, mỗi phân xưởng sản xuất có một
chức năng, nhiệm vụ riêng. Nhà máy có tất cả 6 phân xưởng trong đó 4 phân
xưởng sản xuất chính đó là: PX sợi, PX bao cứng, PX bao mềm, PX Dunhill; 2
phân xưởng mà sản phẩm của nó là hỗ trợ cho các phân xưởng sản xuất chính đó là
phân xưởng Cơ điện và phân xưởng IV.
+ Phân xưởng sợi: Sơ chế lá thuốc lá, thái sợi để cung cấp cho các phân xưởng
sản xuất cuón điếu hay bán cho Nhà máy khác.
+ Phân xưởng bao mềm: Nhận sợi thuốc lá từ phân xưởng sợi để sản xuất cho
các sản phẩm bao mềm.
+ Phân xưởng bao cứng: Sản xuất thuốc lá bao cứng có chất lượng tốt.
+ Phân xưởng Dunhill: Cuốn điếu đầu lọc đóng bao, đây là phân xưởng hợp tác
với hãng Rothmans (Anh).
+ Phân xưởng Cơ điện: Gia công phụ tùng, các chi tiết, thực hiện nhiệm vụ cung
cấp điện, hơi nước, tham gia trung tu, đại tu máy móc thiết bị theo kế hoạch
hàng năm.
+ Phân xưởng IV: Tận dụng những vật tư có thể sử dụng lại cung cấp bao bì
cactông, túi nilon, túi giới thiệu sản phẩm.
Ngoài các phân xưởng ra còn có các đội bốc xếp, đội bảo vệ và đội xe.
Qua cơ cấu tổ chức bộ máy trên ta thấy ưu điểm lớn nhất là các quyết định được
thống nhất từ trên xuống, công việc của cấp dưới không bị chồng chéo, nhưng do
Giám đốc chỉ đạo qua hai Phó giám đốc nên nhiều khi các quyết định không kịp
thời và sát với thực tế.
3. Quy trình sản xuất dây chuyền chế biến thuốc sợi:
a. Nguyên liệu:
- Nhận về đúng theo công thức phối chế.
- Kiểm tra vùng cấp, chất lượng, trọng lượng của từng mẻ thuốc khi đưa vào sản
xuất.
b. Hấp chân không:
- Xếp các kiện thuốc lên xe theo đúng công thức phối chế cho một mẻ hấp ( một mẻ
hấp từ 1600- 2000 kg).
- Kiểm tra W nguyên liệu, chất lượng nguyên liệu từng mác để đạt trước khi hấp
chân không ở chế độ tự động cho phù hợp. Đảm bảo đồng đều về W và giữ được
màu sắc ban đầu của lá thuốc:
TSKT :Ph > 0,8 Mpa
Ph > 0,3 Mpa
Thời gian hấp : 25-30 phút
W sau hấp tăng: 3 1%
Tỷ lệ làm ẩm : 98%
Nhiệt độ trong bao: Thuốc tốt 70
Thuốc TB 80
Chu kỳ hấp: 2 lần
- Đối với trường hợp đặc biệt cần tăng hoặc giảm chu kỳ hấp, phòng KTCN có quy
định cụ thể.
c. Phối chế lá trên băng tải:
- Lá hấp xong phải được phối chế ngay, không được để lâu quá 30 phút.
- Kiểm tra mác thuốc vùng cấp, chất lượng, số lượng cả kiện phải phối chế. Phát
hiện các kiện thuốc sai vùng cấp, chất lượng và báo cho KCS biết để có biện pháp
giải quyết ngay.
- Các bó lá đạt yêu cầu cắt ngọn (lá > 20 cm) phải xếp đều đặn, ngay ngắn, không
chồng chéo lên nhau, phần ngọn lá quay về giữa băng, cắt 1/3 ngọn.
- Lá rời xếp đều đặn hai bên băng tải, không bỏ ồ ạt ùn tắc. Yêu cầu lưu lượng lá khi
phối chế luôn đồng đều nhau và ổn địn