a) Khủng hoảng tài chình là gì?
Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế 
trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Dấu hiệu của Khủng 
hoảng tài chính là:
 Các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
 Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể 
hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
 Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
b) Nguyên nhân
Nguyên nhân chính của khủng hoảng tài chính là do Chính phủ gặp phải vấn đề 
thanh khoản kém, mất cân đối tài chính quốc gia.Tình trạng mất khả năng thanh toán bắt 
nguồn từ các vụ phá sản, kinh doanh thua lỗ và các vấn đề về chi tiêu của Chính phủ. Dự 
trữ quốc gia không đủ bù đắp cho những thâm hụt mà Chính phủ nước đó đã đưa ra. Dẫn 
đến việc thâm hụt tiền tệ.
Khủng hoảng tài chính thường gắn kèm với tự do hóa thị trường tài chính. Tại một 
số quốc gia trên thế giới tự do hóa tài chính luôn đi sau tự do hóa thương mại, tuy nhiên 
do một số quốc gia thì ngược lại. Thực tế đã chứng minh rằng khi một quốc gia tự do hóa 
quá vội vàng các tài khoản vốn và tài chính trong nước đã khuếch đại them sự méo mó. 
Các nhà nghiên cứu cho rằng, có một sự tương quan giữa nỗ lực nhằm tự do hoá các thị 
trường tài chính và số lượng các cuộc khủng hoảng tài chính. Thái Lan, Indonesia trog 
những năm 1994,1995 là một ví dụ điển hình cho việc đia sai lộ trình này. Tuy nhiên tự 
do hoá tài chính có nhất thiết dẫn đến khủng hoảng tài chính và việc xảy ra các cuộc 
khủng hoảng tài chính có thể là một lý do phản đối việc bãi bỏ các quy định về tự do hoá 
tài khoản vốn
Bên cạnh đó nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính còn do tồn tại tình trạng 
thông tin không đối xứng trên thị trường. Thông tin không đối xứng có vai trò chính yếu 
trong các giao dịch tài chính. Nó đưa người vay tới những hành vi cơ hội nguy hiểm và là 
mầm mống cho những kỳ vọng xấu của người cho vay về người đi vay. Thông tin không 
cân xứng khiến cho người đi vay và người gửi tiền do họ khó khăn trong việc phân biệt 
giữa vấn đề thanh khoản và tình trạng mất khả năng thanh toán, qua đó dẫn đến việc 
người sở hữu bán đi những tài sản bằng ngoại tệ của nước gặp khó khăn. Thông tin không 
đối xứng trên TTCK có thể dẫn đến tình trạng đầu tư không công bằng, dẫn đến tình 
trạng kém cạnh tranh trên thị trường, có thể gây mất long tin của nhà đầu tư-> rút khỏi 
TTCK-> sụp đổ TTCK-> khủng hoảng tài chính
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 26 trang
26 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2669 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ quốc tế rủi ro tiềm ẩn của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH 
 KHOA SAU ĐẠI HỌC 
 TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ 
 Đề tài: 
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ QUỐC TẾ 
 RỦI RO TIỀM ẨN CỦA VIỆT NAM 
 GVHD: TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA 
 HVTH: NHÓM 1 
 Lớp: K16 – NH Đêm 2 
 TPHCM, năm 2008 
 1
 CHƯƠNG 1 
 KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ 
 QUỐC TẾ 
1. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính 
a) Khủng hoảng tài chình là gì? 
 Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế 
trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Dấu hiệu của Khủng 
hoảng tài chính là: 
  Các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền. 
  Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể 
 hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng. 
  Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định. 
b) Nguyên nhân 
 Nguyên nhân chính của khủng hoảng tài chính là do Chính phủ gặp phải vấn đề 
thanh khoản kém, mất cân đối tài chính quốc gia.Tình trạng mất khả năng thanh toán bắt 
nguồn từ các vụ phá sản, kinh doanh thua lỗ và các vấn đề về chi tiêu của Chính phủ. Dự 
trữ quốc gia không đủ bù đắp cho những thâm hụt mà Chính phủ nước đó đã đưa ra. Dẫn 
đến việc thâm hụt tiền tệ. 
 Khủng hoảng tài chính thường gắn kèm với tự do hóa thị trường tài chính. Tại một 
số quốc gia trên thế giới tự do hóa tài chính luôn đi sau tự do hóa thương mại, tuy nhiên 
do một số quốc gia thì ngược lại. Thực tế đã chứng minh rằng khi một quốc gia tự do hóa 
quá vội vàng các tài khoản vốn và tài chính trong nước đã khuếch đại them sự méo mó. 
Các nhà nghiên cứu cho rằng, có một sự tương quan giữa nỗ lực nhằm tự do hoá các thị 
trường tài chính và số lượng các cuộc khủng hoảng tài chính. Thái Lan, Indonesia trog 
những năm 1994,1995 là một ví dụ điển hình cho việc đia sai lộ trình này. Tuy nhiên tự 
do hoá tài chính có nhất thiết dẫn đến khủng hoảng tài chính và việc xảy ra các cuộc 
khủng hoảng tài chính có thể là một lý do phản đối việc bãi bỏ các quy định về tự do hoá 
tài khoản vốn 
 Bên cạnh đó nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính còn do tồn tại tình trạng 
thông tin không đối xứng trên thị trường. Thông tin không đối xứng có vai trò chính yếu 
trong các giao dịch tài chính. Nó đưa người vay tới những hành vi cơ hội nguy hiểm và là 
mầm mống cho những kỳ vọng xấu của người cho vay về người đi vay. Thông tin không 
cân xứng khiến cho người đi vay và người gửi tiền do họ khó khăn trong việc phân biệt 
giữa vấn đề thanh khoản và tình trạng mất khả năng thanh toán, qua đó dẫn đến việc 
người sở hữu bán đi những tài sản bằng ngoại tệ của nước gặp khó khăn. Thông tin không 
đối xứng trên TTCK có thể dẫn đến tình trạng đầu tư không công bằng, dẫn đến tình 
trạng kém cạnh tranh trên thị trường, có thể gây mất long tin của nhà đầu tư-> rút khỏi 
TTCK-> sụp đổ TTCK-> khủng hoảng tài chính. 
 2
2. Các\ giải pháp cho khủng hoảng tài chính 
 Trước hết, phải giải toả tâm lý về thanh khoản bằng chiến lược là cung cấp thanh 
khoản cho thị trường và thuyết phục các thành viên thị trường rằng họ không cần phải 
ngay lập tức bán đi các tài sản của mình. Để thị trường yên tâm thì cần có một cơ chế bảo 
hiểm tiền gửi hoạt động tốt. Người đóng vai trò là cho vay cuối cùng là Ngân hàng trung 
ương sẽ cung cấp thanh khoản cho thị trường và để thị trường tự phân bổ, điều tiết lượng 
thanh khoản đó. Khi đó, công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp hữu hiệu giúp NHTW cho 
vay là nghiệp vụ thị trường mở với các giao dịch mua bán lại tín phiếu Kho bạc do Chính 
phủ phát hành. Ngoài công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp là cho vay trên nghiệp vụ thị 
trường mở, cho vay trực tiếp với lãi suất phạt. 
 NHTW ở tình thế rất khó khăn do phải bảo vệ tỷ giá trong khi thị trường cho rằng 
cuối cùng thì việc bảo vệ tỷ giá không quan trọng bằng các mục tiêu vĩ mô và đến một 
lúc nào đó thì đồng tiền sẽ giảm giá. 
 3
 Giải quyết khủng hoảng thanh toán để hạn chế thiệt hại bằng cách: loại bỏ những 
không chắc chắn của nhà đầu tư về tính trong sạch của các thể chế cá nhân. Thêm vào đó, 
buộc các thể chế này phải xử lý những vấn đề về tài sản của mình như định giá thấp… và 
bán cho cơ quan cơ cấu lại nợ của Chính phủ. Điều này làm tăng tính lỏng và giảm bớt 
khó khăn cho người cho vay – ngân hàng. Tuy nhiên, để giải quyết khủng hoảng tài chính 
triệt để thì cần phải ngăn chặn nó bằng cơ chế giám sát, thanh tra và các công cụ, kỹ thuật 
thích hợp. 
3. Mối liên hệ giữa khủng hoảng ngân hàng, tiền tệ và hậu quả của các cuộc khủng 
 hoảng. 
 Vào những năm 90, các cuộc khủng hoảng tài chính ở những nước đang phát triển 
được mô tả với nét tiêu biểu là sự sụp đổ của các cơ chế tỷ giá hối đoái cố định và các 
trung gian tài chính như các ngân hàng. Có lập luận cho rằng các cuộc khủng hoảng này 
thực chất là khủng hoảng tiền tệ. Lập luận khác lại cho rằng đây là khủng hoảng ngân 
hàng vì cơ chế tỷ giá cố định không có vai trò nguyên nhân chính. Nhưng suy cho cùng 
thì khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tệ có mối quan hệ rất chặt chẽ vì cả 2 
liên quan đến việc giữ ổn định giá tài sản và cùng xuất hiện khi cam kết hỗ trợ ổn định 
giá trị đồng tiền, lạm phát trong nước không còn đáng tin cậy. Một khi sự hỗ trợ của 
chính phủ mất đi hoặc tạm ngừng thì kế hoạch ổn định tỷ giá sụp đổ, các ngân hàng sẽ 
mất khả năng thanh toán. 
 Tìm hiểu nguyên nhân của khủng hoảng tiền tệ thì những nghiên cứu đầu tiên chỉ 
ra rằng chính sự mâu thuẫn trong chính sách của Chính phủ đã từng bước tấn công vào tỷ 
giá cố định bởi Chính phủ phát hành tiền để trang trải cho thâm hụt ngân sách. Người dân 
không tin vào bản tệ nên đã chuyển sang tích trữ tài sản ngoại tệ. Dự trữ ngoại hối của 
Chính phủ cạn dần. Chính phủ buộc phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng. 
Các nhà đầu cơ sẽ tranh nhau mua lượng dự trữ cuối cùng của Chính phủ. Cuộc chuyển 
giao khổng lồ này được xem là hình phạt cho những chính sách mâu thuẫn, trái ngược 
của Chính phủ. 
 Mặc dù nguyên nhân trên đúng với nhiều cuộc khủng hoảng trong quá khứ nhưng 
không đúng với cuộc khủng hoảng gần đây ở Châu Á. Chính phủ các nước này đã giữ 
được cân bằng chi tiêu ngân sách và không theo đuổi quá mức tăng trưởng tín dụng. 
 Thế hệ thứ hai của mô hình khủng hoảng tiền tệ đã nhận được sự quan tâm đáng 
kể sau cuộc tấn công vào đồng tiền chung châu Âu và đồng Pêso của Mêhicô ở đầu thập 
kỷ 1990. Mô hình này xuất phát từ cơ sở không có sự mâu thuẫn cơ bản nào về chính 
sách trước các cuộc khủng hoảng. Cơ sở của mô hình là sự tương tác giữa hành vi của 
Chính phủ và hành vi của khu vực tư nhân dẫn đến một vài kết quả có thể xảy ra. Về 
nguyên tắc, nền kinh tế có thể chuyển từ trạng thái cân bằng không chịu sự công kích 
sang trạng thái chịu sự công kích khi có sự chuyển dịch bất ngờ về kỳ vọng của thị 
trường. 
 4
 Thường thì nguồn gốc vấn đề là mâu thuẫn cơ bản giữa nhiều mục tiêu của Chính 
phủ. Ví dụ, Chính phủ muốn giữ ổn định giá cả hoặc ra hiệu cho thị trường về dự định 
theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt trong tương lai. Chính phủ có thể đạt các mục tiêu 
này với mức giá cố định. Mặt khác, nó cũng có thể hạn chế các nghĩa vụ trả nợ, giảm tỷ 
lệ thất nghiệp hay bơm vốn cho hệ thống ngân hàng nếu nó từ bỏ tỷ giá cố định để theo 
đuổi chính sách tiền tệ mở rộng. 
 Nguyên nhân của khủng hoảng ngân hàng là gì? Gần 20 năm trước, Flôd và 
Garber đã điều chỉnh mô hình dự báo trước được cuộc tấn công vào tỷ giá hối đoái với 
trường hợp phá sản ngân hàng ở các nước có nền kinh tế đóng. Hai nhà khoa học đã mô 
tả tình trạng các ngân hàng chuyển đổi các tài sản nợ danh nghĩa cố định. Các ngân hàng 
nhất trí trả lãi không kỳ hạn đối với một đơn vị tiền dự trữ tương ứng với một đơn vị 
đồng bản tệ gửi tại NHTW. Khi không có bảo hiểm tiền gửi, các ngân hàng có thể duy trì 
kế hoạch ổn định lãi suất chừng nào tài sản của họ đủ trang trải các khoản tiền gửi. Flood 
và Garber cũng chỉ ra rằng phá sản ngân hàng cũng có thể là kết quả nhìn thấy trước của 
các chính sách không nhất quán. Chính sách theo đuổi giảm phát của NHTW sẽ phá huỷ 
các cam kết hoàn trả các khoản tiền gửi của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng 
thương mại phải mua tài sản mới để bù đắp cho những tổn thất gây ra chi phí nắm giữ các 
tài sản hiện tại vượt quá thu nhập mà nó đem lại. Như vậy, giảm phát làm giảm thu nhập 
và cuối cùng các NHTM không thể có lãi từ việc duy trì tài sản đảm bảo đầy đủ khả năng 
thanh khoản thì khủng hoảng ngân hàng xảy ra. Khi khủng hoảng ngân hàng xảy ra ở 
những nước có nền kinh tế đóng mà không có sự hỗ trợ của NHTW thì khủng hoảng sẽ 
không làm giảm tài sản quốc tế và trong nước của NHTW mà chỉ tạo ra sự chuyển đổi 
nguồn lực từ các ngân hàng sang các thành phần tư nhân. 
 Như vậy, khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tệ giống nhau ở khía cạnh 
sau cùng cả hai đều làm giảm giá trị đồng tiền và xuất phát từ những chính sách không 
nhất quán. Tuy nhiên, khủng hoảng ngân hàng xuất phát từ chính sách của NHTW còn 
khủng hoảng tiền tệ bắt nguồn từ yếu tố chi tiêu Chính phủ. 
2. Khủng hoảng nợ quốc tế. 
Nợ quốc tế (International Dept) là tiền mà các nước đi vay của cộng đồng quốc tế. Các 
nước mắc nợ bao gồm chủ yếu là những nước đang phát triển, những nước này đi vay 
ngoại tệ từ các nước phát triển và các ngân hàng tư nhân để tài trợ cho các chương trình 
phát triển kinh tế xã hội của mình 
Khủng hoảng nợ quốc tế (International Dept Crisis) là tình trạng đại đa số các nước đi 
vay các khoản tín dụng quốc tế, chủ yếu là các nước đang phát triển , không có khả năng 
trả được các khoản lãi vay hay cả gốc lẫn lãi khi đến hạn và kéo dài trở thành không còn 
có điều kiện, khả năng để trả các khoản đó nữa, buộc các nước chủ nợ phải tìm biện pháp 
giải quyết như hoãn nợ, xóa nợ, mua lại nợ… 
 5
 Nguyên nhân và khủng hoảng 
 Cho đến nay vẫn tồn tại những bất đồng ý kiến về việc cái gì là nguyên nhân cơ 
 bản dẫn đến khủng hoảng nợ nần. Một số người, trong đó có nhiều quan chức chính 
 giới tại các nước kém phát triển cho rằng nguyên nhân chủ yếu là do các chủ ngân 
 hàng quốc tế. Các ngân hàng này đôi khi cho chính phủ của các nước chậm phát 
 triển vay những khoản rất lớn sau khi chỉ xem xét qua quýt về triển vọng trả nợ của 
 họ. Nguyên nhân quan trọng làm cho các chủ ngân hàng không quá lo ngại về khả 
 năng trả nợ nhà nước do chính phủ của các nước chậm phát triển đứng ra vay. Khác 
 với những khoản nợ thông thường giữa các cá nhân là những khoản nợ có thể thu 
 hồi dựa trên cơ sở luật pháp, nợ của các chính phủ đứng ngoài luật pháp của một 
 nước. Nó hoàn toàn dựa vào lòng tin và sự tín nhiệm đối với chính phủ đi vay. Trừ 
 những trường hợp giữa 2 nước xảy ra những bất đồng lớn về chính trị, còn lại thì 
 loại cho vay này là một sự mạo hiểm lớn đối với người cho vay. Vì vậy trong 
 trường hợp làm ăn không thành đạt, các chính phủ con nợ có thể bị cự tuyệt trong 
 một thời gian dài, không thể vay tiếp được nữa. Nợ nhà nước là phần trách nhiệm 
 của toàn thể đất nước, không phụ thuộc vào thành công hay thất bại của một hoạt 
 động riêng lẻ nào được tài trợ bằng khoản tiền cho vay. Triển vọng khả năng hoàn 
 trả nợ của loại nợ không phải của nhà nước thì phụ thuộc vào cả sự tin cậy tín 
 nhiệm của các đối tượng vay lẫn vào thành công hoặc thất bại trong hoạt động làm 
 ăn của đối tượng này. Do vậy mức rủi ro bị vỡ nợ còn lớn hơn khá nhiều kiểu cho 
 vay nợ tư nhân ngay cả khi những khoản nợ này có thể thu hồi nhờ sức ép của luật 
 pháp. 
 Nguyên nhân thứ hai là do những biến động mạnh của nền kinh tế toàn cầu theo 
 hướng gây bất lợi cho các nước đang phát triển, khiến cho nền kinh tế của nước này 
 bị suy thoái, thâm hụt ngân sách nhà nước gia tăng dẫn đến mất khả năng trả nợ. 
 Chẳng hạn như tác động của giá dầu lửa thế giới năm 1979 -1980 làm cho hàng loạt 
 các quốc gia vay nợ ở khu vực châu Phi và châu Mỹ lâm vào tình trạng suy thoái, 
 và không còn cách lựa chọn nào khác họ phải trì hoãn việc trả nợ. 
 Nguyên nhân thứ ba là do sự quản lý kinh tế kém cỏi ở nhiều nước mắc nợ đã làm 
 trầm trọng các vấn đề nợ của những nước này. Hoạt động đầu tư công không hiệu 
 quả, thất thoát lớn, tình trạng tham nhũng làm cho các khoản vốn vay không đem 
 lại hiệu quả mong muốn; quan trọng hơn là không có nguồn để trả nợ. 
 Các giải pháp cho khủng hoảng nợ 
- Kiểm soát cho vay đối với các nước kém phát triển 
 Trước khi tiến hành cho vay, các quốc gia cần tiến hành phân tích rủi ro quốc gia 
 vay nợ bao gồm các rủi ro về chính trị: việc từ chối nợ do mối quan hệ chính trị, 
 các chính sách thuế vụ, khả năng chuyển đổi ngoại tệ của quốc gia; rủi ro về mặt tài 
 chính: thâm hụt ngân sách như thế nào, các nước kém phát triển thâm hụt ngân sách 
 6
 là điều không thể tránh khỏi, chỉ tiêu về tăng trường kinh tề… từ đó đi đền quyết 
 định cho vay hay không các quốc gia này, vì việc cho vay các quốc gia kém phát 
 triển là một rủi ro cao ma không phải bất cứ quốc gia nào cũng có thể tiến hành 
- Áp đặt hàng rào nhập khẩu hoặc can thiệp vào thị trường ngoại hối để làm 
 giảm giá đồng nội tệ: 
 Khả năng trả nợ của các quốc gia tùy thuộc chủ yếu vào khả năng xuất khẩu và thu 
 hút vốn đầu tư của các quốc gia này. Để đạt được các cân mậu dịch thuận lợi, chính 
 phủ các nước mắc nợ có thể xem xét áp đặt hàng rào đối với nhập khẩu hoặc can 
 thiệp vào thị trường ngoại hối để làm giảm giá trị đồng nội tệ. Nếu áp dụng giải 
 pháp thứ nhất có thể gây nên sự mất hiệu năng trong sản xuất địa phương cũng như 
 sự trả đũa của các nước khác. Còn nếu áp dụng giải pháp thứ hai có thể tạo nên một 
 cán cân mậu dịch thuận lợi hơn nhưng lại làm cho các khoản nợ phải thanh toán trở 
 nên đắt đỏ hơn khi phần lớn các khoản vay nợ được tính bằng ngoại tệ. 
- Gia tăng dự trữ tổn thất cho vay: Ngân hàng lập dự trữ cho vay phòng ngừa các 
 biến cố xảy ra, phương pháp này tốt hơn việc chờ đợi đến khi gặp tổn thất thật sự 
- Nâng cao các biện pháp chống tham nhũng: Một trong những nguyên nhân gây 
 ra việc khủng hoảng nợ quốc gia là việc sử dụng vốn vay không hiệu quả khi mà 
 hiện tượng tham nhũng xảy ra một cách mạnh mẽ tại các quốc gia này. Vì vậy, 
 chống thất thoát vốn vay, chống tham nhũng là vấn đề mà các quốc gia cần phải 
 quan tâm, kiểm soát vốn vay hiệu quả cũng là giải pháp hữu hiệu cho khủng hoảng 
 nợ. 
 7
 CHƯƠNG II 
 KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á. 
Khủng hoảng tài chính Châu Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 
1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và 
giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là 
"những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là Khủng hoảng 
tiền tệ Châu Á. 
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc 
khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt 
giá bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị 
ảnh hưởng. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh 
tế Nhật phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình. 
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng 
ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên toàn 
cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ. 
Nguyên nhân 
Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém 
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế gọi là 
Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào 
Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông 
Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức 
ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã 
thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. 
Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô hình 
chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế. 
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại trừ 
việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau năm 
1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất khẩu 
của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại 
theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. 
Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước 
này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.[1] 
 8
Các dòng vốn nước ngoài kéo vào 
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cuối 
thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các nhà đầu 
tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản của 
mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực 
hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước 
phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á.[3] 
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho 
các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bắt chấp mạo hiểm để đi 
vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần 
lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. 
Những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới 
Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu Á bị trì trệ 
từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với Dollar Mỹ từ năm 1994 
cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so với hàng xuất 
khẩu cùng loại của Đông Nam Á. Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang được khôi phục 
lại sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ dưới sự 
lãnh đạo của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để ngăn chặn lạm phát. 
Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các nước ở 
Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông qua lãi suất ngắn hạn 
cao và làm tăng giá đồng Đô La Mỹ. Và do đồng tiền của các nước Đông Nam Á được 
neo vào Dollar Mỹ, nên xuất khẩu của các nước này trở nên kém cạnh tranh. Từ mùa 
Xuân năm 1996, tăng trưởng trong xuất khẩu của Đông Nam Á giảm xuống một cách 
nhanh chóng, làm suy yếu tài khoản vãng lai của họ. 
Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt 
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn 
công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á. 
Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của Thái 
Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin rằng chính phủ đủ 
khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết người 
trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công 
tiền tệ châu Á.[4] Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.[5] 
Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng hoảng yếu kém. 
Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á phải lập 
 9
tức thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả 
dự trữ ngoại hối nhà nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài. 
Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được áp dụng ở các 
nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng.[7] 
Diễn biến 
Thái Lan 
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm 
là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF