Trước bối cảnh của nền kinh tế và xã hội phát triển nhanh chóng, nhất là khi Việt
Nam gia nhập WTO đã tạo nên một bức tranh đổi mới nhanh chóng, trình độ pháp luật của
người dân được nâng cao một cách rõ ràng. Để thu hút thêm nữa nguồn đầu tư của nước
ngoài, chính phủ Việt Nam đã không ngừng cải cách bộ máy hành chính, xây dựng một
nhà nước pháp quyền với tinh thần thượng tôn pháp luật. Vì vậy việc các cơ quan nhà
nước, các đơn vị cá nhân có thẩm quyền ng ày càng phải nâng cao kiến thức pháp luật,
không thể tùy tiện ban hành các văn bản hay các quyết định xử phạt trái pháp luật.
Hiện nay trình độ nhận thức của người dân về pháp luật đã được nâng cao, họ
không dễ dàng chấp nhận các quyết định xử phạt không đúng thẩm quyền và trái luật định,
họ sẵn sang khiếu nại khiếu kiện đến các cơ quan có thẩm quyền nếu như cảm thấy quyền
và lợi ích mình bị xâm phạm. Và người mà họ tin tưởng tìm đến để mong muốn bảo về cho
quyền và lợi ích hợp pháp của mình là đội ngũ luật sư.
Thực chất của việc khiếu kiện hành chính là sự phản ứng của công dân, tổ chức
trước những hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Sự
“phản ứng” này, tùy vào từng giai đoạn lịch sử và sự phát triển kinh tế - xã hội mà Nhà
nước có những nội dung và biện pháp điều chỉnh pháp lý khác nhau. Trước đây, việc khiếu
kiện hành chính chủ yếu được giải quyết bởi các cơ quan và cán bộ công chức hành chính
có thẩm quyền và theo trình tự thủ tục hành chính. Hiện nay, để tăng cường chất lượng và
đảm bảo tính khách quan trong việc giải quyết khiếu nại, Nhà nước ta đã giao thêm thẩm
quyền cho Tòa án tham gia giải quyết khiếu kiện hành chính theo trình tự tư pháp (tố tụng
hành chính).
Như vậy, so với khiếu kiện tư pháp, chỉ giải quyết theo quy định của pháp luật tố
tụng và được thực hiện bởi các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Còn khiếu kiện
hành chính được giải quyết qua hai loại trình tự với những thiết chế khác nhau - đó là trình
tự hành chính với cơ quan, cá nhân do cán bộ, công chức có thẩm quyền giải quyết theo
Luật Khiếu nại, tố cáo và trình tự tố tụng do Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Hai loại
trình tự này tuy khác nhau về tính chất song chúng có mối liên hệ hữu cơ, trong đó có quy
trình và hậu quả giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành chính là điều kiện tiên quyết cho
việc phát sinh khiếu kiện và giải quyết khiếu kiện theo trình tự tư pháp.
19 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4527 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Kỹ năng đánh giá điều kiện khởi kiện vụ án hành chính về xử vi phạm hành chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỹ năng đánh giá điều kiện khởi kiện vụ án hành chính về xử phạt vi phạm hành chính
Tiểu luận
Kỹ năng đánh giá điều kiện
khởi kiện vụ án hành chính về xử
vi phạm hành chính
2
2
I. LỜI NÓI ĐẦU
Trước bối cảnh của nền kinh tế và xã hội phát triển nhanh chóng, nhất là khi Việt
Nam gia nhập WTO đã tạo nên một bức tranh đổi mới nhanh chóng, trình độ pháp luật của
người dân được nâng cao một cách rõ ràng. Để thu hút thêm nữa nguồn đầu tư của nước
ngoài, chính phủ Việt Nam đã không ngừng cải cách bộ máy hành chính, xây dựng một
nhà nước pháp quyền với tinh thần thượng tôn pháp luật. Vì vậy việc các cơ quan nhà
nước, các đơn vị cá nhân có thẩm quyền ngày càng phải nâng cao kiến thức pháp luật,
không thể tùy tiện ban hành các văn bản hay các quyết định xử phạt trái pháp luật.
Hiện nay trình độ nhận thức của người dân về pháp luật đã được nâng cao, họ
không dễ dàng chấp nhận các quyết định xử phạt không đúng thẩm quyền và trái luật định,
họ sẵn sang khiếu nại khiếu kiện đến các cơ quan có thẩm quyền nếu như cảm thấy quyền
và lợi ích mình bị xâm phạm. Và người mà họ tin tưởng tìm đến để mong muốn bảo về cho
quyền và lợi ích hợp pháp của mình là đội ngũ luật sư.
Thực chất của việc khiếu kiện hành chính là sự phản ứng của công dân, tổ chức
trước những hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Sự
“phản ứng” này, tùy vào từng giai đoạn lịch sử và sự phát triển kinh tế - xã hội mà Nhà
nước có những nội dung và biện pháp điều chỉnh pháp lý khác nhau. Trước đây, việc khiếu
kiện hành chính chủ yếu được giải quyết bởi các cơ quan và cán bộ công chức hành chính
có thẩm quyền và theo trình tự thủ tục hành chính. Hiện nay, để tăng cường chất lượng và
đảm bảo tính khách quan trong việc giải quyết khiếu nại, Nhà nước ta đã giao thêm thẩm
quyền cho Tòa án tham gia giải quyết khiếu kiện hành chính theo trình tự tư pháp (tố tụng
hành chính).
Như vậy, so với khiếu kiện tư pháp, chỉ giải quyết theo quy định của pháp luật tố
tụng và được thực hiện bởi các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Còn khiếu kiện
hành chính được giải quyết qua hai loại trình tự với những thiết chế khác nhau - đó là trình
tự hành chính với cơ quan, cá nhân do cán bộ, công chức có thẩm quyền giải quyết theo
Luật Khiếu nại, tố cáo và trình tự tố tụng do Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Hai loại
trình tự này tuy khác nhau về tính chất song chúng có mối liên hệ hữu cơ, trong đó có quy
trình và hậu quả giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành chính là điều kiện tiên quyết cho
việc phát sinh khiếu kiện và giải quyết khiếu kiện theo trình tự tư pháp.
Tham gia vào quá trình giải quyết khiếu kiện hành chính có nhiều chủ thể khác
nhau (chủ thể tiến hành và chủ thể tham gia) trong đó có vai trò của luật sư ngày càng
được đề cao.
Ở vai trò của người luật sư để giúp khách hàng khởi kiện vụ án hành chính nói
chung và khởi kiện vụ án hành chính về xử phạt vi phạm hành chính nói riêng, luật sư cần
có kỹ năng đánh giá điều kiện khởi kiện vụ án hành chính dựa vào các quy định của pháp
luật tố tụng hành chính và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Theo
PLTTGQCVAHC (1996, sửa đổi bổ sung 1998, 2006) tại Điều I quy định cá nhân, cơ
quan nhà nước, tổ chức theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền khởi kiện vụ án hành
chính do yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
II.KHỞI KIỆN VỤ ÁN HÀNH CHÍNH:
3
3
1. Khái niệm
Khởi kiện vụ án hành chính là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ công
chức nhà nước (đủ điều kiện theo quy định của pháp luật) thực hiện quyền yêu cầu Tòa Án
giải quyết vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định
kỷ luật buộc thôi việc cán bộ công chức trái pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì quá trình giải quyết vụ án hành chính
được tiến hành theo các giai đoạn sau:
- Giai đoạn khởi kiện, khởi tố và thụ lý vụ án;
- Giai đoạn chuẩn bị xét xử;
- Xét xử sơ thẩm;
- Xét xử phúc thẩm;
- Thi hành bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật;
- Giai đoạn đặc biệt: xem xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án hành chính
Khác với khiếu kiện vụ án dân sự, kinh tế, lao động khởi kiện vụ án hành chính có
các đặc điểm riêng biệt.
- Khởi kiện vụ án hành chính có mối quan hệ với khiếu nại theo thủ tục hành chính.
Thực chất đây là bước khiếu nại tiếp theo của người khiếu nại nhưng theo trình tự thủ tục
tư pháp mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết là Tòa án do pháp luật tố tụng
hành chính quy định.
Nói cách khác, muốn khởi kiện vụ án hành chính trước đó người khởi kiện phải qua
giai đoạn khiếu nại theo các trình tự thủ tục hành chính do Luật Khiếu nại, tố cáo quy định
còn gọi là giai đoạn tiền tố tụng. Đây là điều kiện cơ bản đầu tiên và là một trong những
căn cứ bắt buộc (cần và đủ) để Tòa án thụ lý kiện vụ án hành chính.
- Đối tượng và phạm vi khởi kiện vụ án hành chính do pháp luật tố tụng hành chính
quy định. Theo pháp luật tố tụng hành chính hiện hành thì đối tượng khởi kiện vụ án hành
chính gồm quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc
cán bộ, công chức (Điều 11 PLTTGQCVAHC). Đây cũng là đối tượng xét xử hành chính
của TAND. Các quyết định hay hành vi bị khởi kiện là do các cơ quan nhà nước hoặc cán
bộ, công chức trong các cơ quan đó ban hành hay thực hiện mà người khởi kiện cho rằng
xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Đặc điểm trên đây cho phép xác định một loạt nội dung và vấn đề quan trọng tạo
nên sự khác biệt giữa vụ án hành chính với các vụ án phi hình sự khác nhất là tính chất và
vị trí của người bị kiện.
- Khởi kiện vụ án hành chính là hành vi tố tụng thuộc quyền của người khởi kiện
làm xuất hiện nghĩa vụ của Tòa án là phải xem xét và giải quyết yêu cầu của người khởi
kiện.
Đặc điểm này xác định trách nhiệm và phạm vi xem xét, giải quyết vụ án hành
chính là phải xuất phát từ yêu cầu của người khởi kiện chứ không xem xét yêu cầu của các
đương sự khác. Do đó, trong quá trình giải quyết vụ án hành chính không thể có hiện
tượng phản tố như các vụ án phi hình sự khác. Việc xem xét yêu cầu của người khởi kiện
4
4
không chỉ xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của Tòa án mà còn giúp định hướng hàng loạt
hành vi tiến hành tố tụng quan trọng của Tòa án nhằm xem quyết định hành chính, hành vi
hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức bị khởi kiện là hợp
pháp hay bất hợp pháp.
- Khởi kiện vụ án hành chính là hành vi tham gia tố tụng thuộc quyền của người
khởi kiện nhưng là loại quyền có điều kiện. Do vậy, để thực hiện việc khởi kiện, người
khởi kiện phải hội đủ các điều kiện cần và đủ theo quy định của pháp luật tố tụng hành
chính. Nếu thiếu một trong những quyền này sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý là làm mất quyền
khởi kiện của người khởi kiện. Đây cũng chính là những điều kiện cần thiết để Tòa án thụ
lý vụ án hành chính
- Khởi kiện vụ án hành chính còn là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu lực
và chất lượng quản lý hành chính nhà nước.
Trong quá trình quản lý hành chính, các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện
hành vi quản lý thông qua việc ban hành các quyết định hay thực hiện các hành vi hành
chính. Trong số các quyết định hay hành vi đó có thể có những quyết định hay hành vi trái
pháp luật gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Do vậy việc
công dân, tổ chức thực hiện quyền khởi kiện, hành vi đó để khắc phục những sai lầm và vi
phạm, đảm bảo tính hợp pháp và có hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước.
III. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH:
1. Một số dấu hiệu của quyết định hành chính:
Căn cứ vào Điều 4 và 12 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã
được sửa đổi, bổ sung ngày 05 tháng 4 năm 2006) thì quyết định hành chính là quyết định
bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể
về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Như vậy, theo khái niệm này thì
quyết định hành chính là đối tượng xét xử của Tòa hành chính khi nó thỏa mãn những dấu
hiệu sau đây:
Một là, quyết định hành chính đó phải là quyết định hành chính cá biệt: Trên cơ sở
quyết định quy phạm, quyết định cá biệt được ban hành nhằm mục đích hướng đến việc
các chủ thể pháp luật hành chính thực hiện được các quyền cũng như nghĩa vụ trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Vì vậy, đây là hoạt động thường xuyên và cũng nhờ có quyết định
này mà pháp luật được thi hành. Vốn dĩ, là một quyết định để áp dụng quy phạm pháp luật
vì thế nó có đặc trưng riêng của một quyết định cá biệt, như: Được áp dụng một lần cho
một hoặc một số đối tượng cụ thể. Các quyết định cá biệt được ban hành trên cơ sở của
quyết định chủ đạo cũng như quyết định quy phạm nhằm mục đích để các chủ thể có thẩm
quyền giải quyết các công việc cụ thể trên từng lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.
Chính vì vậy, quyết định cá biệt sẽ trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một
quan hệ pháp luật hành chính cụ thể. Như vậy, quyết định hành chính là đối tượng xét xử
của Tòa hành chính phải là quyết định cá biệt. Tức là, quyết định áp dụng pháp luật vào
một trường hợp cụ thể và được áp dụng một lần đối với một hoặc nhiều đối tượng khác
nhau.
5
5
Hai là, quyết định hành chính đó phải tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của
công dân. Khi ban hành quyết định hành chính để giải quyết những công việc cụ thể trong
quản lý hành chính, để áp dụng pháp luật vào các trường hợp cụ thể. Cơ quan hành chính
hoặc người có thẩm quyền đã ban hành quyết định hành chính, nhưng việc ban hành quyết
định này đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Tức là, làm
phát sinh tranh chấp giữa cá nhân, tổ chức với cơ quan nhà nước về quyết định hành chính.
Ba là, quyết định hành chính đó phải là quyết định hành chính lần đầu. Ngoài
những quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành lần đầu trong khi giải quyết, xử lý
những việc cụ thể thuộc thẩm quyền của mình, thì những quyết định hành chính được ban
hành thuộc một trong các trường hợp sau đây cũng được coi là quyết định hành chính lần
đầu (NQ số 04/2006/NQ-HĐTP ngày 04 tháng 8 năm 2006).
2. Đặc điểm của Quyết định xử phạt vi phạm hành chính:
Theo khoản 2, Điều 1, PLXLVPHC thì: “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng
đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý
hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội
phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Quyết định xử phạt hành chính khi được ban hành sẽ gây ra một hậu quả pháp lý
đặc biệt, làm phát sinh trách nhiệm hành chính của cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính,
tức là buộc họ phải chịu hậu quả bất lợi trước nhà nước về tinh thần (bị hạn chế quyền)
hoặc về tài sản (bi phạt tiền, tịch thu tan vật, phương tiện…).
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính có những đặc điểm sau:
+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là một loạt quyết định cưỡng chế nhà
nước, mang tính quyền lực nhà nước.
Tính cưỡng chế và tính quyền lực nhà nước thể hiện ở chỗ quyết định xử phạt hành
chính luôn được các cơ quan, cán bộ có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện.
Chỉ có các cơ quan hoặc cán bộ nhà nước nào được Nhà nước trao thẩm quyền xử phạt
hành chính và được ghi rõ trong các văn bản pháp luật có quy định về xử phạt hành chính
mới có quyền quyết định xử phạt.
Quyết định xử phạt hành chính là phản ứng của Nhà nước trước các hành vi xâm
hại quy tắc quản lý nhà nước. Biểu hiện của phản ứng đó là việc áp dụng các biện pháp xử
phạt hành chính. Việc áp dụng các biện pháp xử phạt này có tác dụng trực tiếp điều chỉnh
hành vi xử sự của người vi phạm tức là buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi
trước Nhà nước và có tác dụng đình chỉ vi phạm hành chính, qua đó góp phần bảo vệ và
duy trì các trật tự quản lý nhà nước.
+ Cơ sở để quyết định xử phạt hành chính là vi phạm hành chính.
Đặc điểm này cho thấy chỉ có hành vi nào xâm phạm quy định quản lý mà chưa đến
mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự do các cá nhân, tổ chức đủ năng lực chủ thể thực
hiện với lỗi cố ý hay do vô ý mới bị xử phạt hành chính.
Đặc điểm có tính nguyên tắc trên đây đã được khẳng định tại khoản 1 Điều 3 Pháp
lệnh Xử lý vi phạm hành chính.
Do vậy, khi áp dụng các biện pháp xử phạt đòi hỏi các cơ quan hoặc cán bộ nhà
nước có thẩm quyền phải xác định rõ có vi phạm hành chính xảy ra hay không, tính chất
6
6
và mức độ của vi phạm như thế nào, hành vi vi phạm đó đã được quy định trong các văn
bản pháp luật có quy định về xử phạt hành chính hay chưa.
Quyết định xử phạt hành chính là hình thức thể hiện công khai ý chí của Nhà nước
về thái độ phản ứng trước các hành vi vi phạm hành chính và mức cưỡng chế của Nhà
nước đối với các chủ thể vi phạm.
+ Quyết định xử phạt hành chính được ban hành trong khuôn khổ và phải tuân theo
pháp luật về trình tự, thủ tục hành chính (PLXLVPHC 2002, sửa đổi bổ sung 2007, 2008;
Nghị định 128/2008/NĐ-CP).
3. Hình thức của các quyết định xử phạt hành chính:
Các quy định về hình thức đối với các quyết định xử phạt hành chính là có tính
nguyên tắc, chặt chẽ và cụ thể dựa vào các yếu tố sau:
a) Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính:
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được quy định cụ thể từ Điều 28 đến Điều
40 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
b) Về nguyên tắc xác định thẩm quyền được quy định tại Điều 42 của Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính, cụ thể là:
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi
phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương.
- Các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan quản
lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực có thẩm quyền xử phạt đối với những hành vi vi phạm
hành chính được quy định cụ thể tại các Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm
hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước.
- Thẩm quyền xử phạt của các chức danh theo quy định của Pháp lệnh trên trong
từng trường hợp cụ thể được xác định như sau:
+ Thẩm quyền phạt tiền được xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt
quy định cho mỗi hành vi vi phạm hành chính;
+ Thẩm quyền áp dụng hình thức tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
được xác định căn cứ vào bản quy phạm pháp luật về định vi phạm hành chính trong từng
lĩnh vực quản lý nhà nước quy định cho chức danh có thẩm quyền tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính đối với một hành vi vi phạm cụ thể. Trường hợp pháp
lệnh quy định thẩm quyền tịch thu theo trị giá của tang vật, phương tiện vi phạm thì phải
căn cứ vào giá trị thực tế của tang vật, phương tiện vi phạm để xác định thẩm quyền.
+ Thẩm quyền áp dụng hình thức tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề được xác định căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Đối với hành vi vi phạm có quy định áp dụng
hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề thì chức danh nào
có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi đó cũng có quyền xử phạt tước
quyền sử dụng giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề đối với người vi phạm, trường hợp
luật có quy định khác thì theo quy định của luật. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày quyết
định xử phạt vi phạm hành chính, người đã ra quyết định xử phạt phải thông báo bằng văn
bản cho cơ quan cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề về việc đã áp dụng hình thức xử phạt
tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
+ Thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả được xác định căn cứ vào
Pháp lệnh quy định chức danh đó có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu
7
7
quả; đồng thời căn cứ vào hành vi vi phạm cụ thể có quy định việc áp dụng biện pháp khắc
phục hậu quả được quy định trong các Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước.
+ Trong trường hợp mức tiền phạt, trị giá tang vật phương tiện bị tịch thu hoặc một
trong các hình thức xử phạt hoặc biện pháp khắc phục hậu quả không thuộc thẩm quyền
hoặc vượt quá thẩm quyền thì người đang thụ lý vụ việc vi phạm phải kịp thời chuyển vụ
việc vi phạm dó đến người có thẩm quyền xử phạt.
Như vậy, một quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không đúng, không phù
hợp với những nội dung trên thì được coi là quyết định xử phạt trái pháp luật cần phải hủy
bỏ.
c) Về thủ tục ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính:
Có 2 hình thức thủ tục ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính như sau:
Một là, thủ tục xử phạt đơn giản:
Trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000 đồng đến 200.000
đồng thì người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt tại chỗ.
Quyết định xử phạt phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, địa chỉ của
người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm; địa điểm xảy ra vi
phạm; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; điều, khoản của văn bản pháp luật được áp
dụng; quyết định này phải được giao cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt một bản. Trường hợp
phạt tiền thì trong quyết định phải ghi rõ mức tiền phạt. Cá nhân, tổ chức vi phạm có thể
nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt; trong trường hợp nộp tiền phạt tại
chỗ thì được nhận biên lai thu tiền phạt.
Việc áp dụng thủ tục này được hiểu là:
- Xử phạt theo thủ tục đơn giản quy định tại Điều 54 của Pháp lệnh là trường hợp
xử phạt, theo đó người có thẩm quyền xử phạt không lập biên bản mà ra quyết định xử
phạt tại chỗ. Những trường hợp được tiến hành xử phạt theo thủ tục đơn giản bao gồm:
+ Hành vi vi phạm hành chính mà mức phạt quy định là cảnh cáo hoặc phạt tiền
đến 200.000 đồng;
+ Nhiều hành vi vi phạm hành chính do một người thực hiện mà hình thức và mức
phạt quy định đối với mỗi hành vi này đều là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 200.000
đồng;
- Trong trường hợp xử phạt theo thủ tục đơn giản, người có thẩm quyền không lập
biên bản mà ra quyết định xử phạt tại chỗ. Quyết định xử phạt phải thể hiện bằng văn bản
theo mẫu quy định. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho người có
thẩm quyền xử phạt và được nhận biên lai thu tiền phạt do Bộ Tài chính phát hành. Trong
trường hợp không nộp tiền phạt tại chỗ, cá nhân, tổ chức vi phạm nộp tiền phạt tại Kho bạc
Nhà nước trong thời hạn được quy định tại khoản 1 Điều 58 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm
hành chính.
Hai là, thủ tục lập biên bản (còn gọi là thủ tục thông thường):
- Khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có
thẩm quyền xử phạt đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản, trừ trường hợp xử
phạt theo thủ tục đơn giản.
8
8
Vi phạm hành chính xảy ra trên tàu bay, tàu biển thì người chỉ huy tàu bay, tàu biển
có trách nhiệm lập biên bản để chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt khi tàu bay, tàu
biển về đến sân bay, bến cảng.
- Trong biên bản về vi phạm hành chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm lập
biên bản; họ, tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp người vi phạm
hoặc tên, địa chỉ tổ chức vi phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi
vi phạm; các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử phạt (nếu có);
tình trạng tang vật, phương tiện bị tạm giữ (nếu có); lời khai của người vi phạm hoặc đại
diện tổ chức vi phạm; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị
thiệt hại thì phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ, lời khai của h