Tiểu luận Lạm phát, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam (cuối 2007-2008)

Năm 2007, tăng trưởng kinh tế nước ta có những bước tiến thần kỳ, đạt được mức cao của mục tiêu do Quốc hội đề ra, thuộc loại cao so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tăng trưởng kinh tế cao đã góp phần làm cho quy mô kinh tế lớn lên. GDP tính theo giá thực tế đạt khoảng 1.143 nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người đạt khoảng 13,42 triệu đồng, tương đương với 71,5 tỉ USD và 839 USD/người! Đây là tín hiệu khả quan để có thể sớm thực hiện được mục tiêu thoát khỏi nước nghèo và kém phát triển có thu nhập thấp vào ngay năm tới. Theo Tổng cục Thống kê ngày 31-12, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2007 ước tính tăng 8,48% so với năm 2006, đạt kế hoạch đề ra (8,2-8,5%). Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đánh giá, tăng trưởng kinh tế năm 2007 của nước ta đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực.

doc18 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1980 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lạm phát, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam (cuối 2007-2008), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH KHOA NGÂN HÀNG QUỐC TẾ TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ LẠM PHÁT- TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM (CUỐI 2007-2008) NHÓM 6 Thái Hoàng Duy Vũ Bích Hằng Nguyễn Thanh Bình Nguyễn Thị Thùy Trang Lê Thị Lan Phương Vũ Bảo Trung Ngô Quang Tuấn Lê Trọng Tấn Nghiêm Vũ Hoàng TP.HỒ CHÍ MINH, 12/2008 LỜI MỞ ĐẦU Trên thế giới,hầu như tất cả các quốc gia đều theo đuổi bốn mục tiêu chung - tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư. Trong các mục tiêu này, tăng trưởng cao và lạm phát thấp là hai mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu, quan hệ chặt chẽ với nhau “khống chế” lẫn nhau. Như chúng ta đã biết trong khoảng thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008 lạm phát ở nước ta đã tăng đến mức báo động, buộc các nhà hoạch định chính sách phải quyết định lựa chọn tăng trưởng kinh tế hay lạm phát- một bài toán kinh tế cơ bản nhưng hết sức nan giải. Để hiểu rõ thêm về điều này nhóm 6 quyết định chọn đề tài lạm phát – tăng trưởng kinh tế cũng như mối quan hệ giữa chúng ở Việt Nam những tháng cuối năm 2007 và 6 tháng đầu năm 2008 Vì điều kiện thời gian cũng như mức độ hiểu biết của nhóm còn hạn chế,bài tiểu luận khó tránh khỏi những sai sót.Mong thầy và các bạn thông cảm.Rất mong nhận được ý kiến đóng góp để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.Xin chân thành cảm ơn! 1. Tăng trưởng kinh tế 1.1 Định nghĩa Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định 1.2 Tình hình thực tế: 1.2.1 Năm 2007 Năm 2007, tăng trưởng kinh tế nước ta có những bước tiến thần kỳ, đạt được mức cao của mục tiêu do Quốc hội đề ra, thuộc loại cao so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tăng trưởng kinh tế cao đã góp phần làm cho quy mô kinh tế lớn lên. GDP tính theo giá thực tế đạt khoảng 1.143 nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người đạt khoảng 13,42 triệu đồng, tương đương với 71,5 tỉ USD và 839 USD/người! Đây là tín hiệu khả quan để có thể sớm thực hiện được mục tiêu thoát khỏi nước nghèo và kém phát triển có thu nhập thấp vào ngay năm tới. Theo Tổng cục Thống kê ngày 31-12, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2007 ước tính tăng 8,48% so với năm 2006, đạt kế hoạch đề ra (8,2-8,5%). Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đánh giá, tăng trưởng kinh tế năm 2007 của nước ta đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực. Phải nói rằng nền kinh tế Việt nam tăng trưởng một cách toàn diện Khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 theo giá thực tế ước đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% GDP (đạt kế hoạch đề ra 40% GDP) và tăng 15,8% so với năm 2006. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng khá, ước tính năm 2007 đạt 20,3 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm 2006 và vượt 56,3% kế hoạch cả năm, trong đó vốn cấp phép mới là 17,86 tỷ USD. Giá trị sản xuất của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2007 theo giá so sánh năm 1994 ước đạt gần 200 nghìn tỷ đồng, tăng 4,6% so với năm 2006, trong đó nông nghiệp tăng 2,9%; lâm nghiệp tăng 1% và thuỷ sản tăng 11%. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2007 ước tính tăng 17,1% so với năm 2006.Giá trị hàng hóa xuất khẩu năm 2007 ước đạt gần 48,4 tỷ USD, tăng 21,5% so với năm 2006, trong đó tất cả các mặt hàng chủ yếu đều tăng. Giá trị xuất, nhập khẩu dịch vụ cả năm 2007 ước đạt 12,4 tỷ USD, tăng 21,6% so với năm trước, trong đó giá trị xuất khẩu dịch vụ đạt 6 tỷ USD, tăng 18,2% và giá trị nhập khẩu dịch vụ, gồm cả phí vận tải và bảo hiểm hàng nhập khẩu đạt 6,4 tỷ USD, tăng 24,9%. Năm 2007 hoạt động bưu chính, viễn thông tiếp tục phát triển mạnh. Số thuê bao điện thoại phát triển mới trong năm 2007 ước đạt 18,5 triệu thuê bao (gần bằng số thuê bao phát triển trong 3 năm 2004, 2005, 2006) nâng tổng số thuê bao trên cả nước tính đến hết tháng 12/2007 đạt 46 triệu thuê bao. Số thuê bao internet (quy đổi) phát triển mới năm 2007 ước đạt 1,18 triệu thuê bao. Đến nay đã có 18,2 triệu người sử dụng internet, chiếm 21,4% dân số cả nước. Lượng khách quốc tế đến nước ta trong năm 2007 ước tính đạt 4,23 triệu lượt người, tăng 18% so với năm 2006. kinh tế tăng trưởng cao nhất trong 11 năm 1.2.2 Năm 2008 Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm 2008 tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2007. Trong đó, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7%; dịch vụ tăng 7,6%; khu vực nông - lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,04%. Tổng thu ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm nay đạt 60,6%, tổng chi ngân sách nhà nước đạt 51,8% mức dự toán cho cả năm. Sản xuất công nghiệp: Tính chung 6 tháng đầu năm 2008, giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 16,5% so với cùng kỳ năm 2007, trong đó, khu vực kinh tế nhà nước tăng 6,9%; khu vực ngoài nhà nước tăng 22,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,4%. Trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp, ngành công nghiệp chế biến tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước; ngành công nghiệp khai thác mỏ giảm 4,2% do sản lượng dầu thô giảm 7,9% và sản lượng than sạch tăng 8% (thấp hơn mức tăng 12,4% của 6 tháng đầu năm 2007)... Thương mại, giá cả và dịch vụ: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2008 theo giá thực tế ước đạt 447,3 nghìn tỉ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì còn tăng 8%). Như vậy, mức tăng này thấp hơn mức tăng cùng kỳ năm trước 15%. Giá tiêu dùng tháng 6-2008 đã chững lại ở mức tăng 2,14% so với tháng 5-2008. Đây là tháng có mức tăng thấp nhất trong 6 tháng đầu năm nay, nhưng là mức tăng cao nhất so với chỉ số giá tháng 6 của một vài năm gần đây. Giá vàng và đô-la Mỹ tăng, giảm không ổn định trong 6 tháng đầu năm nay. Tình hình đầu tư: Vốn đầu tư thực hiện 6 tháng đầu năm 2008 theo giá thực tế ước đạt 265,4 nghìn tỉ đồng( tăng 21,1% so với cùng kỳ năm ngoái), bao gồm vốn khu vực nhà nước đạt 106,1 nghìn tỉ đồng, tăng 15,2%; vốn khu vực ngoài nhà nước đạt 80 nghìn tỉ đồng, tăng 15,1%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 79,3 nghìn tỉ đồng, tăng 37,7%. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng cao, tính từ đầu năm đến ngày 20-6-2008, có 478 dự án đầu tư nước ngoài mới được cấp phép với số vốn đăng ký 30,9 tỉ USD. Tuy giảm so với cùng kỳ năm ngoái 29,5% về số dự án, nhưng tăng 324,3% về số vốn. Mức vốn đăng ký bình quân một dự án đạt 64,7 triệu USD, cao hơn cùng kỳ năm trước 53,9 triệu USD so với một dự án. Nếu tính cả 661,2 triệu USD cấp bổ sung của 158 lượt dự án đã được cấp phép trước đây thì tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước trong 6 tháng đầu năm đạt 31,6 tỉ USD, gấp hơn 3,7 lần so với cùng kỳ năm trước, vượt xa con số 21,3 tỉ USD đầu tư nước ngoài vào Việt Nam của cả năm 2007. Giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2008 theo giá so sánh 1994 đạt 93,1 nghìn tỉ đồng, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, nông nghiệp tăng 3,4%; lâm nghiệp tăng 0,9% và thủy sản tăng 8,7%. Kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng hóa tháng 6-2008 ước tính đạt 5,5 tỉ USD, giảm 4,4% so với tháng trước, nhưng tăng 32,9% so với cùng kỳ năm 2007. Tính chung 6 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 29,7 tỉ USD, tăng 31,8% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của 6 tháng đầu năm ước đạt 44,5 tỉ USD, tăng 60,3% so với cùng kỳ năm 2007.  (nguồn Tình hình kinh tế vĩ mô 6 tháng năm 2008-BIDV) (bảng số liệu so sánh với các nước trên thế giới) --(đánh giá: 2.Lạm phát: 2.1Tình hình lạm phát Việt Nam năm 2007, 6 tháng đầu năm 2008 2.1.1 Năm 2007 Hiện tượng lạm phát phi mã gần đây ở VN có tất cả những dấu hiệu của lạm phát ở các nước chậm tiến hay đang phát triển, đã được nhiều chuyên gia và các tổ chức quốc tế đề cập đến và cảnh báo khá nhiều Theo đó CPI tháng 2/2007 so với tháng 1/2007 chỉ là 2,17% và lạm phát 2 tháng đầu năm 2007 chỉ ở 1 con số là 6,5%. Hiện tượng giá cả thị trường tăng nhanh trong 6 tháng đầu năm 2007 đã gây nên nhiều lo ngại. Sau hai năm liên tục ở mức cao (9,5% năm 2004 và 8,4% năm 2005), lạm phát dường như đã có dấu hiệu suy giảm và chỉ còn 6,6% năm 2006. Tuy nhiên, áp lực lạm phát lại bùng phát ngay từ đầu năm 2007. Trong 6 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 5,2%. Nếu so với 6 tháng năm 2006, chỉ số giá tiêu dùng tăng 7,8%. Hầu hết các nhóm hàng đều có mức tăng giá cao so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 8,34%, nhóm hàng ăn - dịch vụ ăn uống tăng 6,8%. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam và các nước trong khu vực  Đây được coi là mối quan ngại lớn về kinh tế vĩ mô hiện nay bên cạnh các dấu hiệu tích cực như tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP), xuất khẩu, đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài. Nếu so sánh với các nước trong khu vực, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam cao hơn khá nhiều. ** Trong 6 tháng cuối năm 2007, lạm phát tiếp tục gia tăng ở mức báo động. lạm phát phi mã tưởng chừng không thể nào dừng lại được. Hầu hết 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng đều tăng. Trong 11 nhóm hàng hóa, dịch vụ, nhóm thực phẩm (chiếm tỷ trọng lớn nhất trong "rổ" hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng) giá tăng cao nhất (tháng 12 tăng tới 4,69%, cả năm tăng tới 21,16%). Nhóm lương thực (nhóm chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trong "rổ" hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng) có giá tăng cao thứ ba (tháng 12 tăng 2,98%, cả năm tăng 15,4%). Giá nhà ở và vật liệu xây dựng (gồm tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng) tháng 12 tăng 3,28%, cả năm tăng tới 17,12% (cao thứ hai sau nhóm thực phẩm). Giá vật liệu xây dựng tăng cao đã làm cho giá bất động sản tăng kép (tăng do giá đất tăng, tăng do giá xây dựng tăng), khác với các lần sốt trước chỉ có giá đất tăng. Giá phương tiện đi lại, bưu điện tháng 12 tăng 4,38%, nhưng nếu không kể giá bưu điện giảm (- 0,77%) thì giá phương tiện đi lại còn tăng cao hơn nữa, do giá xăng dầu tăng cao. Đây mới là tháng 12 giá xăng dầu trực tiếp tăng (vào cuối tháng 11) Đáng lưu ý là tốc độ tăng giá tiêu dùng đã cao hơn nhiều so với lãi suất huy động tiết kiệm, nhất là lãi suất huy động tiết kiệm của các ngân hàng thương mại nhà nước (lãi suất cả năm chỉ dưới 8%); ngay các ngân hàng thương mại cổ phần có lãi suất trên dưới 9%/năm thì cũng thấp hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng. Biểu đồ thể hiện chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam qua các năm:  2.1.2 Sáu tháng đầu năm 2008 Lạm phát ở Việt Nam đến thời điểm này, hiện đang cao nhất khu vực, bất chấp các nước khác có cùng điều kiện quốc tế khách quan chung, nhưng dù cao như Trung Quốc cũng chỉ nhỉnh hơn 1/3 của Việt Nam (8,5% của Trung Quốc so với 25% của VN so cùng kỳ), phần lớn các nước khác như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore…tính đến nay CPI của họ chỉ “cao” bằng ¼ của Việt nam! CB Richard Ellis Group, công ty môi giới bất động sản lớn nhất thế giới, tháng 2/2008 công bố giá thuê văn phòng tại Việt Nam cao nhất châu Á. Đến hết tháng 5/2008, lạm phát ở Việt Nam đã là 15,96% so với 31/12/2007 và 25% so cùng kỳ năm trước - Mức cao nhất trong 15 năm quakểtừ1993!... Tuy nhiên, sau nhiều gói biện pháp hạn chế lạm phát của chính phủ và ngân hàng nhà nước, tình hình lạm phát ở Việt Nam đã có phần “giảm nhiệt”. Lạm phát tháng 6/2008 đã giảm mạnh: Tháng 6 chỉ số giá tiêu dùng tăng 2,14%, là mức thấp nhất trong 6 tháng qua và không có cơn sốt giá nào xảy ra, 6 tháng đầu năm chỉ số giá tăng 18,44%. Yếu tố làm chỉ số giá tăng thấp có nguyên nhân quan trọng là giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng 6 chỉ tăng 3,29%, đây là nhóm hàng quyết định tới khoảng 80% mức tăng chỉ số giá. Chỉ số giá tiêu dùng các tháng đầu năm 2008: tháng 1 là 2,38%; Tháng2: 3,56%; Tháng3: 2,99%; Tháng4: 2,2% và tháng 5 là 3,91%  Tình hình lạm phát 6 tháng đầu năm 2008(đơn vị%) 2.2 Nguyên nhân: 2.2.1Các nguyên nhân chính từ bối cảnh kinh tế toàn cầu: Thứ nhất: Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào của sản xuất liên tục gia tăng: Trong 4 năm từ 2003-2006 kinh tế toàn cầu liên tục tăng trưởng cao, đặc biệt là nhóm các nước “mới nổi” ở khu vực Châu á, nhất là Trung Quốc đã đẩy nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng cao đột biến, cùng với những bất ổn và xung đột chính trị quân sự tại khu vực Trung Đông là các nguyên nhân trực tiếp đẩy giá dầu lên cao chưa từng có trong lịch sử 110 USD/thùng trong tháng 3/2008, đồng thời giá các nguyên vật liệu đầu vào khác như sắt thép, phân bón, xi măng cũng liên tục gia tăng. Như vậy, giá dầu đã tăng 72%, sắt thép tăng 114%, phân bón tăng 59,6%, khí hoá lỏng tăng 95% kể từ đầu năm 2007 đến tháng 3/2008 và đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước tới nay. Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng: xuất phát từ quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh diễn ra liên tiếp, cùng với những năm tăng trưởng kinh tế mạnh trên thế giới - là những năm quá trình công nghiệp hoá được đẩy mạnh khiến diện tích đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất cả những điều trên làm sản lượng lương thực - thực phẩm ngày càng giảm mạnh. Ngoài ra, giá năng lượng tăng cao đã khiến nhiều nước sử dụng một sản lượng lớn ngũ cốc chuyển sang sản xuất nhiên liệu sinh học càng làm cho nguồn cung lương thực đã giảm càng giảm sút. Thứ ba: Một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế toàn cầu: Trước việc giá dầu và giá lương thực - thực phẩm liên tục leo thang đã tạo nên cú sốc cung rất lớn đẩy lạm phát toàn cầu tăng cao, tình hình này đã buộc các NHTW phải tăng các mức lãi suất chủ chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể: Nhật Bản tăng 1 lần từ 0,25%- 0,5%/năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ 3,5%-3,75%-4,0%/năm; Anh tăng 3 lần từ 5%-5,5%/năm (trong đó có 1 lần giảm); Thuỵ Điển tăng 4 lần từ 3,0%-4,0%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6,12-7,47%/năm. Việc các nước thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất chủ đạo cùng với việc giá dầu, giá lương thực - thực phẩm tiếp tục tăng cao chính là nguyên nhân cơ bản đã đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái vào những tháng đầu năm 2008, mà biểu hiện là cuộc khủng hoảng cho vay dưới tiêu chuẩn của Mỹ bắt đầu từ tháng 7/2007. Trước bối cảnh lạm phát gia tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, các NHTW không còn cách nào khác là phải bơm một lượng tiền khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế, trong đó riêng Mỹ từ tháng 8/2007 đến nay đã phải đưa ra nền kinh tế trên 2.300 tỷ USD, trong đó có 800 tỷ USD tiền mặt để cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu Âu, Nhật Bản, Anh cũng phải đưa một lượng tiền lớn để cứu vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng; cùng với việc một số NHTW phải thực hiện cắt giảm lãi suất từ tháng 8/2007 trở lại đây như Mỹ, Anh, Canada. Việc cứu vãn nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là cùng một bối cảnh thế giới như nhau, tại sao các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia lại có mức lạm phát thấp hơn so với lạm phát của Việt Nam? Vậy, mức lạm phát của Việt Nam tăng cao trong thời gian vừa qua ngoài những yếu tố thế giới thì còn những nguyên nhân nào khác? 2.2.2 Các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế Việt Nam: Thứ nhất: Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã tác động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu - là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào chính của sản xuất. Mặc dù Chính phủ đã cố gắng kiểm soát giá xăng dầu, nhưng từ đầu năm 2007 đến hết Quý I/08 giá xăng dầu đã phải điều chỉnh tăng 4 lần, tính chung giá xăng dầu đã tăng tới 38%, giá thép tăng 91%, giá điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%; giá xi măng tăng 15%; giá phân bón tăng 58%. Điều này đã tác động làm chi phí sản xuất tăng cao. Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/2007, miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn cung lương thực - thực phẩm bị sụt giảm. Thứ ba: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ 2001-2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Trong vòng 3 năm trở lại đây kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng ở mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này đối với Chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đã khuyến khích cho “chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ” nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm phát bình quân từ 2005 đến 2007 tăng trên 8,01%. Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một nguyên nhân quan trong làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Các ngân hàng cũ mở rộng tín dụng bằng việc nới lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau bằng giảm lãi suất cho vay, tăng lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay,chuyển đổi mô hình, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới nhanh chóng vượt quá khả năng quản trị, cho thành lập thêm các ngân hàng mới và tất cả các ngân hàng chủ yếu đua nhau tìm kiếm lợi nhuận từ nghiệp vụ cho vay nên càng làm cho tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng cao trong suốt năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008, đó là nguyên nhân rất quan trong gây sức ép rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua.    So sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP của ba nước, lấy mốc năm 2004 bằng 100%. Cung tiền đo bằng M2 (gồm tổng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng) (Nguồn: Số liệu Thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, riêng số liệu tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 của Việt Nam và Trung Quốc lấy từ nguồn Economist Intelligent Unit.)   Thứ tư: Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi trường đầu tư đã tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh. Năm 2007 luồng vốn FDI tăng 20,3 tỷ USD vốn đăng ký, cao hơn nhiều so với mức 10,2 tỷ USD của năm 2006, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ khoảng trên 6 tỷ, gấp 5 lần con số của năm 2006 mà chủ yếu đổ vào thị trường chứng khoán, trái phiếu đặc biệt là đổ vào IPO các doanh nghiệp nhà nước lớn. Đứng trước bối cảnh này, Ngân hàng nhà nước đã phải cung ứng một lượng lớn tiền VND để mua ngoại tệ vào nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng cao, tác động làm lạm phát gia tăng.  nguồn Tổng Cục Thống kê Tổng vốn ODA ký kết tính đến 20/7/2008 đạt 1389 triệu USD, trong đó vốn vay đạt 1277 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại đạt 112 triệu USD. Giải ngân vốn ODA 7 tháng đầu năm nay (bao gồm cả vốn được ký kết trước 2008) đạt 1205 triệu USD, bằng 63% kế hoạch năm, trong đó vốn vay đạt 1063 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại đạt 142 triệu USD. Trong tổng vốn giải ngân, vốn vay của 3 nhà tài trợ lớn là WB, JBIC, ADB đạt mức giải ngân cao nhất với 850 triệu USD, chiếm 70% tổng vốn giải ngân 3.Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng: Như đã nói ở trên,bất kì quốc qia nào cũng mong muốn tăng trưởng cao,lạm phát thấp.Tuy nhiên,muốn tăng trưởng cao hơn thì phải tăng đầu tư, tăng chi ngân sách, hạ lãi suất cho vay, kích cầu tiêu dùng, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu… nhưng nếu