V. I. Lênin (1870 - 1924) - vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản, người đã
đấu tranh không mệt mỏi để bảo vệ tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác. Bằng
những nghiên cứu và kết luận khoa học của mình, V. I. Lênin đã làm phong
phú chủ nghĩa M ác, đưa chủ nghĩa M ác sang một giai đoạn mới cao hơn, giải
đáp những vấn đề cơ bản mà thời đại đặt ra cho giai cấp vô sản quốc tế.
I/ HOÀN CẢNH LỊCH SỬ:
Chủ nghĩa Mác từ giữa thế kỷ XIX với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
bất hữu. Kể từ đó, giai cấp công nhân đã có một học thuyết cách mạng dẫn
đường trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bốt lột của giai cấp tư sản nhằm giải
phóng mình và giải phóng toàn nhân loại. Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa M ác,
giai cấp công nhân đã được tổ chức, được lãnh đạo bởi chính Đảng của mình.
Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác ngày càng lan rộng ra nhiều khu vực trên thế
giới.
Sau C. Mác, Ăngghen đã cụ thể hóa luận điểm này và nhấn mạnh: về
nguyên tắc, giai cấp công nhân không còn con đường nào khác là phải giành
lấy chính quyền và thiết lập nền chuyên chính của mình thông qua con đường
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, theo chủ nghĩa M ác, chuyên chính vô
sản thực chất là sự thống trị của giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ
nghĩa sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
Đến giai đoạn Lênin, yêu cầu tổng kết, khái quát, bảo vệ và phát triển
sáng tạo quan niệm của chủ nghĩa Mác về chuyên chính vô sản được đặt ra hết
sức cấp bách. Sở dĩ như vậy vì :
+Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai
đoạn chủ nghĩa đế quốc, điều này đã làm tăng thêm khả năng kinh tế của các
nước tư bản chủ nghĩa, nhưng nó lại làm cho bản chất bốc lột và thống trị của
tư bản ngày càng biểu hiện rõ ra, kéo theo những mâu thuẩn trong lòng xã hội
tư bản ngày càng trở nên gay gắt. Sự phát triển đó đã mang lại cho khoa học và
triết học những động lực phát triển mới.
+ Mâu thuẫn trong lòng các nước tư bản ngày càng thể hiện một cách rõ
nét, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn
“đêm trước của cách mạng vô sản”. Bên cạnh đó, trong hàng ngũ những người
cộng sản đã xuất hiện những phần tử cơ hội, chống lại những quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác về chuyên chính vô sản như E. Bextanh, C. Causki. Những
người này chủ trương tiến tới chủ nghĩa xã hội bằng con đường hòa bình, phủ
nhận tính chất giai cấp của nhà nước. M ặt khác, cực đoan hơn, những người
theo chủ nghĩa vô chính phủ còn chống lại bất cứ một quan niệm nào về tổ
chức nhà nước, kể cả nhà nước chuyên chính vô sản.
+ Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên có những phát minh lớn mang tính
vạch thời đại, nhất là phát hiện về điện tử và cấu tạo nguyên tử đã làm đảo lộn
về quan niệm căn bản về thế giới của vật lý học cổ điển, dẩn tới cuộc khủng
hoảng vật lý. Lợi dụng tình hình đó, chủ nghĩa duy tâm, trong đó có chủ nghĩa
Makhơ-một thứ chủ nghĩa duy tâm chủ quan – tấn công vào chủ nghĩa duy vật
nói chung, chủ nghĩa duy vật mácxít nói riêng.
13 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4478 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận LÊNIN, NGƯỜI BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH CÔNG TRIẾT HỌC MÁC, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: LÊNIN, NGƯỜI BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN TH ÀNH CÔNG TRIẾT HỌC MÁC
*******************************************************************************************************
*********************************************************************
HVTH: PHẠM BÌNH AN
Trang 1
Tiểu luận
LÊNIN, NGƯỜI BẢO VỆ VÀ
PHÁT TRIỂN THÀNH CÔNG TRIẾT HỌC MÁC
Đề tài: LÊNIN, NGƯỜI BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN TH ÀNH CÔNG TRIẾT HỌC MÁC
*******************************************************************************************************
*********************************************************************
HVTH: PHẠM BÌNH AN
Trang 2
V. I. Lênin (1870 - 1924) - vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản, người đã
đấu tranh không mệt mỏi để bảo vệ tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác. Bằng
những nghiên cứu và kết luận khoa học của mình, V. I. Lênin đã làm phong
phú chủ nghĩa M ác, đưa chủ nghĩa M ác sang một giai đoạn mới cao hơn, giải
đáp những vấn đề cơ bản mà thời đại đặt ra cho giai cấp vô sản quốc tế.
I/ HOÀN CẢNH LỊCH SỬ:
Chủ nghĩa Mác từ giữa thế kỷ XIX với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
bất hữu. Kể từ đó, giai cấp công nhân đã có một học thuyết cách mạng dẫn
đường trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bốt lột của giai cấp tư sản nhằm giải
phóng mình và giải phóng toàn nhân loại. Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa M ác,
giai cấp công nhân đã được tổ chức, được lãnh đạo bởi chính Đảng của mình.
Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác ngày càng lan rộng ra nhiều khu vực trên thế
giới.
Sau C. Mác, Ăngghen đã cụ thể hóa luận điểm này và nhấn mạnh: về
nguyên tắc, giai cấp công nhân không còn con đường nào khác là phải giành
lấy chính quyền và thiết lập nền chuyên chính của mình thông qua con đường
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, theo chủ nghĩa M ác, chuyên chính vô
sản thực chất là sự thống trị của giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ
nghĩa sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
Đến giai đoạn Lênin, yêu cầu tổng kết, khái quát, bảo vệ và phát triển
sáng tạo quan niệm của chủ nghĩa Mác về chuyên chính vô sản được đặt ra hết
sức cấp bách. Sở dĩ như vậy vì :
+Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai
đoạn chủ nghĩa đế quốc, điều này đã làm tăng thêm khả năng kinh tế của các
nước tư bản chủ nghĩa, nhưng nó lại làm cho bản chất bốc lột và thống trị của
tư bản ngày càng biểu hiện rõ ra, kéo theo những mâu thuẩn trong lòng xã hội
tư bản ngày càng trở nên gay gắt. Sự phát triển đó đã mang lại cho khoa học và
triết học những động lực phát triển mới.
+ M âu thuẫn trong lòng các nước tư bản ngày càng thể hiện một cách rõ
nét, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn
“đêm trước của cách mạng vô sản”. Bên cạnh đó, trong hàng ngũ những người
cộng sản đã xuất hiện những phần tử cơ hội, chống lại những quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác về chuyên chính vô sản như E. Bextanh, C. Causki. Những
người này chủ trương tiến tới chủ nghĩa xã hội bằng con đường hòa bình, phủ
nhận tính chất giai cấp của nhà nước. M ặt khác, cực đoan hơn, những người
theo chủ nghĩa vô chính phủ còn chống lại bất cứ một quan niệm nào về tổ
chức nhà nước, kể cả nhà nước chuyên chính vô sản.
+ Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên có những phát minh lớn mang tính
vạch thời đại, nhất là phát hiện về điện tử và cấu tạo nguyên tử đã làm đảo lộn
về quan niệm căn bản về thế giới của vật lý học cổ điển, dẩn tới cuộc khủng
hoảng vật lý. Lợi dụng tình hình đó, chủ nghĩa duy tâm, trong đó có chủ nghĩa
Makhơ-một thứ chủ nghĩa duy tâm chủ quan – tấn công vào chủ nghĩa duy vật
nói chung, chủ nghĩa duy vật mácxít nói riêng.
Đề tài: LÊNIN, NGƯỜI BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN TH ÀNH CÔNG TRIẾT HỌC MÁC
*******************************************************************************************************
*********************************************************************
HVTH: PHẠM BÌNH AN
Trang 3
+Ở nuớc Nga, sau thất bại của cuộc cách mạng 1905-1907, những người
theo chủ nghĩa M akhơ cũng tăng cường hoạt động lý luận, họ viện cớ bảo vệ
chủ nghĩa Mac, nhưng thực chất là đã xuyên tạc triết học macxit. Cách mạng
Tháng Hai năm 1917 phát triển thành Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười
vĩ đại, lập nên nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới, mở ra thời kỳ mới
của lịch sử nhân loại- thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi tòan thế giới.
+Xuất hiện nhiều khuynh hướng triết học tấn công vào triết học M ác:
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại,…đội
lốt chủ nghĩ Mác, biểu hiện trong phái Mensêvích, những người Nga theo chủ
nghĩa M akhơ, bọn xét lại trong Quốc tế II, điều nhằm mục đích phủ nhận chủ
nghĩa M ác, và thay vào đó là các hình thức của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo.
Vấn đền đăc ra là cần phải đấu tranh về mặt lý luận để chống lại các
khuynh hướng tư tưởng đối lập, bảo vệ và phát triển triết học Mác. Là một
thanh niên trí thức có tư tưởng cấp tiến, không chấp nhận chế độ Nga hoàng
thối nát lạc hậu, Lênin đã sớm tham gia các hoạt động cách mạng chống chế độ
hiện hành. Lênin nhận thấy bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác, tự nguyện trở thành một người mátxít và chiến đấu đến hơi thở cuối cùng
cho sự thành công của chủ nghĩa Mác. Người đã phát triển toàn diện chủ nghĩa
Mác, đặc biệt là triết học, với những kết luận phù hợp với thực tiển lịch sử và
khoa học của thời kỳ này.
II/ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUÁ TRÌNH V.I.LÊNIN PHÁT
TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC:
1/ GIAI ĐOẠN 1893-1907: từ những năm 80 của thế kỷ XIX, chủ
nghĩa M ác được truyền vào nuớc Nga thông qua nhóm “ Giải phóng lao động”
do Plêkhanốp đứng đầu. Do không đứng trên lập trường của giai cấp vô sản,
điều này đã đưa ông xa rời lập trường macxit và chuyển sang lập trường của
nhóm cơ hội Mensêvích. Do đó, V.I.Lênin đã viết nhiều tác phẩm quan trọng
để đấu tranh chống lại phái dân tuý, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác.
Tác phẩm “ Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống
những người dân chủ - xã hội ra sao” (1984) Lênin đã vạch trần bản chất phản
cách mạng , giả danh “bạn của dân” của phái dân tuý Nga. Ông đã chỉ ra mâu
thuẩn trong xã hội Nga và con đường phát triển tất yếu của nước Nga, vai trò
của giai cấp vô sản trong hội chủ nghĩa.
+ Lênin viết: “chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản
xuất, và đem những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản
xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển
của những hình thái quan hệ xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên. Và dĩ
nhiên là không có một quan điểm như thế thì không thể có một khoa học xã hội
được” đã khẳng định những quy luật khách quan quyết định sự vận động của
lịch sử xã hội trải qua các hình thái kinh tế xã hội.
+V.I.Lênin đã làm cho phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học
chân chính khi vận dụng phương pháp biện chứng của triết học Mác vào quá
trình vận động, phát triển của lịch sử để phát hiện ra các quy luật chi phối đời
sống xã hội: “ Không bao giờ có một người mácxít nào đã xây dựng những
quan điểm dân chủ-xã hội của mình trên một cơ sở nào khác, ngoài cái cơ sở là
Đề tài: LÊNIN, NGƯỜI BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN TH ÀNH CÔNG TRIẾT HỌC MÁC
*******************************************************************************************************
*********************************************************************
HVTH: PHẠM BÌNH AN
Trang 4
sự phù hợp của những quan điểm ấy với hiện thực và với lịch sử những quan hệ
kinh tế xã hội nhất định… Vì về mặt lý luận thì sự đòi hỏi đó đã được chính
bản thân M ác, người sáng lập ra chủ nghĩa M ác, nêu lên một cách hoàn toàn rõ
ràng và chính xác, coi đó là cơ sở toàn bộ học thuyết của mình”.
+ Lênin chỉ rõ: “ Người ta không thể có một lý luận cách mạng nào
ngoài chủ nghĩa M ác cả. Họ càng mau chóng dồn hết tâm sức của mình ra để
vận dụng lý luận đó vào nước Nga, cả về mặt lý luận lẫn về mặt thực tiển, thì
thắng lợi của công tác cách mạng sẽ càng chắc chắn và mau chóng”. “ Sức hấp
dẫn không gì cưỡng nổi đã lôi cuốn những người xã hội chủ nghĩa của tất cả
các nước đi theo lý luận đó, chính là ở chổ kết hợp tính chất khoa học chặt chẽ
và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội)với tinh thận cách mạng…
Một sự kết hợp nội tại và khăn khít”. Người đã chỉ ra vai trò nhân tố chủ quan
trong cách mạng xã hội, vai trò quần chúng nhân dân và cá nhân lịch sử.
Tác phẩm “Làm gì?”(1902) Lênin đã làm sáng tỏ các hình thức đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản trứơc khi giành chính quyền, chỉ ra vai trò rất
quan trọng của hệ tư tưởng lý luận trong cuộc đấu tranh cách mạng. Hệ tư
tưởng của chủ nghĩa Mác không hình thành một cách tự phát trong phong trào
công nhân, mà nó được truyền bá, giáo dục một cách tự giác trong phong trào
đó, vì vậy tuyên truyền lý luận cách mạng là một nội dung quan trọng để hướng
tới mục tiêu đấu tranh chính trị trong cách mạng vô sản.
Với tác phấm “ Hai sách lược của Đảng dân chủ-xã hội trong cách mạng
dân chủ” (1905) V.I.Lênin đã bác bỏ quan điểm của phái Mensêvích và phái
xét lại Tây Âu lúc bấy giờ, đồng thời chỉ rõ tính chất của cuộc cách mạng Nga
lần thứ nhất và bác bỏ quan điểm của các lãnh tụ cơ hội trong Quốc tế II, để
khẳng định rằng thắng lợi của cuộc cách mạng dân chủ là tiền đề cho cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó Người đã nêu lên những nội dung cơ bản
của cách mạng tư sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, chỉ rõ vai trò của quần
chúng nhân dân, của nhân tố chủ quan, của các Đảng chính trị trong cuộc đấu
tranh cách mạng để giành thắng lợi.
2/GIAI ĐOẠN 1907 ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA:
Ở nước Nga, sau thất bại của cuộc cách mạng 1905-1907, nhũng người
theo chủ nghĩa M akhơ cũng tăng cường hoạt động lý luận. Họ viện cớ bảo vệ
chủ nghĩa Mác, nhưng thực chất là xuyên tạch chủ nghĩa mácxít. Tình hình này
đặt ra một nhiệm vụ cấp bách là phải tuyên chiến với các tư tưởng đối lập, bảo
vệ và phát triển triết học M ác, xác lập thế giới quan duy vật và phương pháp
biện chứng cho giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản
phản động.
Tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”(1908-1909)thể hiện sự kết hợp sâu sắc giữa tính đảng và tình khoa học
trong triết học Mác. Qua tác phẩm này, chúng ta nhận thấy rằng Người đã thực
hiện xuất sắc nhiệm vụ mà lịch sử đề ra. Lênin không chỉ phê phán quan điểm
duy tâm, siêu hình của những người theo chủ nghĩa Makhơ mà còn bổ sung và
phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử dựa trên cơ sở phân
tích, khái quát nhũng thành tựu khoa học mới nhất, trước hết là khoa học tự
nhiên thời đó.
Đề tài: LÊNIN, NGƯỜI BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN TH ÀNH CÔNG TRIẾT HỌC MÁC
*******************************************************************************************************
*********************************************************************
HVTH: PHẠM BÌNH AN
Trang 5
+ Về vấn đề cơ bản của triết học: Lênin đã vạch ra bản chất duy tâm chủ
quan của cái gọi là “phát minh vĩ đại”ra các yếu tố trung gian của phái Makhơ.
Người viết: “Sự tồn tại của vật chất không phụ thuộc vào cảm giác. Vật chất là
cái có trước, cảm giác, tư tưởng ý thức là sản phẩm cao nhất của vật chất được
tổ chức theo một cách thức đặt biệt. Đó là quan điểm của chủ nghĩa duy vật nói
chung, và của C.Mác và Ph.Ăngghen nói riêng. Makhơ và Avênariút đã lén lút
du nhập chủ nghĩa duy vật bằng cách dùng chữ “yếu tố”… Thật là trẻ con nếu
nghĩ rằng bịa ra một từ mới là có thể tránh được những trào lưu triết học cơ
bản… Thưa các ngài, triết học của các ngài chỉ là chủ nghĩa duy tâm đã uổng
công che đậy sự trần trụi của chủ nghĩa duy ngã của mình bằng một thuật ngữ
khách quan hơn. Hoặc giả “yếu tố” không phải chỉ là cảm giác, mà như vậy từ
“mới” của các ngài tuyệt đối không có một chút ý nghĩa nào cả, và các ngài chỉ
làm ồn lên vô ích mà thôi”. Mặc khác, Người cũng chỉ rõ và phê phán tính
đảng trong triết học Mackhơ và Avênariút: “Bây giờ hãy đứng trên quan điểm
đảng phái trong triết học để xét Makhơ, Avênariút cùng trường phái của họ.
Chà, các ngài ấy cứ tự hào về tính không đảng phái của mình, và nếu họ có một
cực đối lập thì họ chỉ có một và chỉ có độc một…nhà duy vật mà thôi. Xuyên
suốt tất cả những trước tác của hết thảy mọi người theo phái Makhơ, là cái
tham vọng ngu dốt muốn vượt lên chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
muốn khắc phục sự đối lập “cũ kỹ” ấy, nhưng kỳ thật, thì cả đám người đó cứ
mỗi lúc một sa vào chủ nghĩa duy tâm và kiên quyết tiến hành tới cùng một
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy vật”. Theo Lênin, bản chất của các học giả
tư sản đó là “Nói chung và về đại thể các giáo sư môn kinh tế đều chỉ là những
học giả làm thuê cho giai cấp tư bản, còn các giáo sư triết học đều chỉ là bọn
học giả làm thuê cho phái thần học mà thôi.” “Triết học hiện đại cũng có tính
đảng như triết học hai nghìn năm về trước. Những đảng phái đó đấu tranh với
nhau, về thực chất- mặc dù thực chất đó bị che dấu bằng những nhãn hiệu mới
của thủ đoạn lang băm hoặc tính phi đảng ngu xuẩn- là chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm.”
+Về nhận thức luận: Lênin nêu lên những nguyên tắc cơ bản của nhận
thức duy vật biện chứng khi phê phán quan điểm phủ nhận khả năng con người
nhận thức thế giới khách quan của phái Makhơ: “1) Có những vật tồn tại độc
lập với ý thức của chúng ta, độc lập với cảm giác của chúng ta, ở ngoài chúng
ta…2) Dứt khoát là không có và không thể có bất kỳ sự khác nhau nào về
nguyên tắc giữa hiện tượng và vật tự của nó. Chỉ có sự khác nhau gĩưa cái đã
được nhận thức và cái chưa được nhận thức…3)Trong lý luận nhận thức, cũng
như trong tất cả những lĩnh vực khác của khoa học, cần suy luận một cách biện
chứng, nghĩa là dừng giả định rằng nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và
có sẳn, mà phải phân tích xem sự hiểu biết nảy sinh từ sự không hiểu biết như
thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và không chính xác trở thành đầy đủ hơn và
chính xác hơn như thế nào”. Trong những hoàn cảnh điều kiện lịch sử nhất
định nó biểu hiện trong chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối “Như vậy là theo
bản chất của nó, tư duy của con người có thể cung cấp và đang cung cấp cho
chúng ta chân lý tuyệt đối mà chân lý này chỉ là tổng số những chân lý tương
đối. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học lại mang thêm những hạt mới vào
cái tổng số ấy của chân lý tuyệt đối, nhưng những giới hạn chân lý của mọi
Đề tài: LÊNIN, NGƯỜI BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN TH ÀNH CÔNG TRIẾT HỌC MÁC
*******************************************************************************************************
*********************************************************************
HVTH: PHẠM BÌNH AN
Trang 6
định lý khoa học đều là tương đối, khi thì mở rộng ra, khi thì thu hẹp lại, tuỳ
theo sự tăng tiến của tri thức”. “ Đối với chủ nghĩa duy vật biện chứng thì giữa
chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không có ranh giới không thể vượt qua”.
Lênin khẳng định: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ
nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. “Dĩ nhiên không nên quên rằng tiêu
chuẩn thực tiễn, xét về thực chất, không bao giờ có thể xác nhận hoặc bát bỏ
một cách hoàn toàn một biểu tượng nào đó của con người, dù biểu tượng ấy là
thế nào chăng nữa. Tiêu chuẩn đó cũng khá “không xác định” để không cho
phép các hiểu bíêt của con người trở thành một cái tuyệt đối”. Như vậy, thực
tiển đóng vai trò là tiêu chuẩn của nhận thức lý luận. V.I.Lênin viết: “ Nếu cái
mà thực tiễn của chúng ta xác nhận là chân lý khách quan, duy nhất, cuối cùng,
thì như thế tức là con đường duy nhất dẫn đến chân lý đó là con đường của
khoa học xây dựng trên quan điểm duy vật…Đi theo con đường mà Mác vạch
ra thì chúng ta ngày càng đi đến gần chân lý khách quan (tuy không bao giờ có
thể nắm hết được). Nếu đi theo bất cứ con đường nào khác, chúng ta chỉ có thể
đi đến sự lẫn lộn và dối trá.”
+Về bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật trước những xuyên tạc của
chủ nghĩa duy tâm đối với các thành tựu mới của vật lý học và nguyên nhân
dẫn đến sự khủng hoảng trong vật lý học. Người đã định nghĩa phạm trù vật
chất: “ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho on người trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. “ Đương nhiên, sự đối
lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết
sức hạn chế: trong trừơng hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đền nhận thức luận
cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn
đó, thì không nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối”. Quan niệm của
Lênin càng chứng minh mối liên hệ thống nhất giữa triết học duy vật biện
chứng với khoa học tự nhiên: “ Vật lý học hiện đại đang nằm trên giường đẻ.
Nó đang đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện chứng… Toàn bộ chủ nghĩa duy tâm vật
lý học, toàn bộ triết học kinh nghiệm phê phán, cũng như thuyết kinh nghiệm
tượng trương, thuyết kinh nghiệm nhất nguyên… đều thuộc những cặn bả phải
vứt bỏ đi”. Lênin đã vạch rõ thực chất của cuộc khủng hoảng trong vật lý học là
do các nhà vật lý không nắm được phép biện chứng, di chệch hướng theo chủ
nghĩa duy tâm: “ Thực chất của cuộc khủng hoảng vật lý hiện đại là ở sự đảo
lộn những quy luật cũ và những nguyên lý cơ bản, ở sự gạt bỏ thực tại khách
quan ở bên ngoài ý thức, tức là ở sự thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa
duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri”. “ Nhưng chủ nghĩa duy vật biện chứng kiên
trì cho rằng bất kỳ lý luận khoa học nào về cấu trúc và đặt tính của vật chất
cung điều có những tinh chất gần đúng, tương đối, trong tự nhiên không hề có
đường ranh giới nào tuyệt đối, bản chất đang vận động sẽ chuyển hoá từ một
trạng thái này sang trạng thái khác…Vật lý mới sở dĩ đi chệch sang phía chủ
nghĩa duy tâm, chủ yếu là vì các nhà vật lý học không hiểu được phép biện
chứng… Trong khi phủ nhận tính bất biến của những nguyên tố và cả những
đặc tính của vật chất đã được biết cho đến nay, họ đã rơi vào chổ phủ nhận,
nghĩa là phủ nhận tính thực tại khách quan của thế giới vật lý”. Những kết luận
của Lênin có ý nghĩa định hướng cho các nhà khoa học tự nhiên không ngừng
Đề tài: LÊNIN, NGƯỜI BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN TH ÀNH CÔNG TRIẾT HỌC MÁC
*******************************************************************************************************
*********************************************************************
HVTH: PHẠM BÌNH AN
Trang 7
đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất trên nền tảng thế giới quan duy vật và phép
biện chứng mácxít. Thế giới vật chất là vô cùng vô tận, tồn tại độc lập với ý
thức con người, ý thức con người phan ánh thế giới vật chất khách quan, vì vậy
nó phải luôn luôn phát triển. Cũng vô cùng vô tận như thế giới vật chất, tri thức
không bao giờ có giới hạn cuối cùng.
Tác phẩm “Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác(1913) đã chỉ ra nguyên nhân, bản chất và kết cấu của chủ nghĩa Mác.
Tác phẩm “Bút ký triết học" gồm những ghi chép và nhận xét của Lênin
khi đọc các tác phẩm của nhiều nhà triết học được thức hiện chủ yếu trong
những năm 1914 đến năm 1915, cho thấy ông đã đặc biệt quan tâm nghiên cứu
về phép biện chứng duy vật và lý luận nhận thức duy vật, nhất là triết học ở
Hêghen.
+Về sự phát triển: Lênin so sánh hai quan niệm đối lập nhau: “Hai quan
niệm cơ bản… về sự phát triển (sự tiến hoá), sự phát triển coi như là sự giảm đi
và tăng lên, như là lặp lại và sự phát triển coi như là sự thống nhất của các mặt
đối lập. Quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan niệm thứ
hai là sinh động. Chỉ có quan niệm thứ hai mới cho ta chìa khoá của sự “tự vận
động”, của tất thảy mọi cái đang tồn tại, chỉ có nó mới cho ta chìa khoá của
những “bước nhảy vọt”, của sự “gián đoạn của