Chiến tranh lạnh ra đời như một “di sản vĩ đ ại” của chiến tranh thế
giới thứ hai. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, m ở ra một thời kì mới
trong quan hệ quốc tế, thời kì mà mỗi quốc gia đều nuôi dưỡng những
khao khát, mong muốn riêng của mình. Duy chỉ một điểm chung mà quốc
gia nào cũng mong muốn đó là sự bền vững và phát triển của mình trong
một lớp vỏ bọc dày dặn được che chở bởi đồng minh của mình. Vì thế các
khối quân sự ra đời như một đòi hỏi cấp thiết để đáp ứng những tham
vọng trong lòng những đế quốc già cũng như các nước tư bản chủ nghĩa
khác. Không nằm ngoài số đó, việc “Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương (NATO)” ra đời như một sự hiển nhiên phải thế. NATO là một tổ
chức tập đoàn quân sự đa quốc gia phương Tây, ra đời sau Chiến tranh
thế giới thứ hai nhằm mục đích giúp Mỹ ngăn chặn Liên Xô, bảo vệ địa
vị chủ đạo của mình ở các nước Châu Âu. Cùng với những biến động
đột ngột ở Đông Âu, sự biến mất của khối Varsazawa mà ngược lại, nó
càng phát triển mạnh mẽ, số lượng các nước thành viên được tăng thêm,
phạm vi thế lực được bành trướng một cách rõ rệt. Đúng như một học giả
nổi tiếng người Đ ức về các vấn đề quốc tế Các Caixơ đã chỉ ra: ”Trong
tất cả, những sắp xếp quốc tế chủ yếu của thời kỳ chiến tranh lạnh, không
có sự biến đổi nào lại sâu sắc và mạnh mẽ như Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương”.
20 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3521 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lịch sử hình thành khối NATO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
Lịch sử hình thành khối NATO
2
LỜI MỞ ĐẦU
Chiến tranh lạnh ra đời như một “di sản vĩ đại” của chiến tranh thế
giới thứ hai. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, mở ra một thời kì mới
trong quan hệ quốc tế, thời kì mà mỗi quốc gia đều nuôi dưỡng những
khao khát, mong muốn riêng của mình. Duy chỉ một điểm chung mà quốc
gia nào cũng mong muốn đó là sự bền vững và phát triển của mình trong
một lớp vỏ bọc dày dặn được che chở bởi đồng minh của mình. Vì thế các
khối quân sự ra đời như một đòi hỏi cấp thiết để đáp ứng những tham
vọng trong lòng những đế quốc già cũng như các nước tư bản chủ nghĩa
khác. Không nằm ngoài số đó, việc “Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương (NATO)” ra đời như một sự hiển nhiên phải thế. NATO là một tổ
chức tập đoàn quân sự đa quốc gia phương Tây, ra đời sau Chiến tranh
thế giới thứ hai nhằm mục đích giúp Mỹ ngăn chặn Liên Xô, bảo vệ địa
vị chủ đạo của mình ở các nước Châu Âu. Cùng với những biến động
đột ngột ở Đông Âu, sự biến mất của khối Varsazawa mà ngược lại, nó
càng phát triển mạnh mẽ, số lượng các nước thành viên được tăng thêm,
phạm vi thế lực được bành trướng một cách rõ rệt. Đúng như một học giả
nổi tiếng người Đức về các vấn đề quốc tế Các Caixơ đã chỉ ra: ”Trong
tất cả, những sắp xếp quốc tế chủ yếu của thời kỳ chiến tranh lạnh, không
có sự biến đổi nào lại sâu sắc và mạnh mẽ như Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương”.
I. Nguyên nhân ra đời và mục đích hoạt động của cơ chế
NATO.
1. Nguyên nhân ra đời:
1.1 Bối cảnh quốc tế:
Chiến tranh lạnh kết thúc, sự nghiệp chung chống phát xít Đức, Ý,
Nhật đã trở thành chất keo dính để duy trì đồng minh trong thời chiến của
3
một số nước lớn đã bắt đầu từng bước mất đi tạo điều kiện cho xung đột
và đối kháng giữa các nước. trước chiến tranh, các nước lớn như Anh,
Pháp, Đức, Ý, Nhật, Mỹ, Liên Xô cùng tồn tại, sức lực ngang nhau, so
sánh lực lượng quốc tế đã có sự thay đổi căn bản của nó là “hai cực hóa”
Xô-Mỹ. Với thực lực và kinh tế hùng mạnh, sau chiến tranh, Mỹ vượt lên
chiếm vị trí bá chủ trong thế giới chủ nghĩa tư bản.
Liên Xô phải chịu thiệt hại nặng nề sau chiến tranh, nhưng đang
từng bước tang cường sức mạnh và ảnh hưởng chính trị trên trường quốc
tế. Ở Đông Âu đã xuất hiện một loạt các nước XHCN, những nước này
ủng hộ chính sách đối ngoại của Liên Xô và là vùng đệm quan trọng cho
Liên Xô trong việc chống lại thế lực phương Tây. Liên Xô đã trở thành
một trung tâm sức mạnh khác trên thế giới.
Tháng 8-1945, Tổng thống Mỹ Truman ra lệnh ném bom nguyên tử
xuống hai thành phố Nhật Bản là Hirôshima và Nagasaki, hoàn toàn
không xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ đánh bại phát xít Nhật, vì không có
hai quả bom đó thì Hồng quân Liên Xô cũng đã đánh bại đội quân Quan
Đông mạnh nhất của phát xít Nhật, buộc chúng phải đầu hàng vô điều
kiện. Viện cớ giả tạo đánh phát xít Nhật, Mỹ quyết định sử dụng bom
nguyên tử, trước hết để đe doạ Liên Xô và các lực lượng cách mạng thế
giới trong hoạch định sức mạnh, quyền lợi và ảnh hưởng của Mỹ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai. Hành động đó của Mỹ báo hiệu mọt kỷ
nguyên mới trong quan hệ quốc tế - kỷ nguyên dùng sức mạnh của vũ khí
hạt nhân để giải quyết mâu thuẫn giữa các nước trên quy mô toàn cầu.
Chẳng bao lâu sau, với nỗ lực phi thường, Liên Xô cũng làm chủ được
công nghệ chế tạo bom nguyên tử và phá bỏ thế độc quyền của Mỹ. Núp
dưới ô hạt nhân, thế giới phân chia thành hai cực, thực chất là hai hệ
thống chính trị đối đầu về ý thức hệ. Ở châu Âu hình thành hai khối quân
4
sự lớn nhất và mạnh nhất hành tinh đối đầu nhau với bản chất trái ngược
nhau: khối NATO - công cụ xâm lược và quan trọng nhất trong chiến
lược toàn cầu của Mỹ và khối Vácsava, trụ cột chủ yếu của hoà bình thế
giới.
1.2 . Lợi ích quốc gia:
Các nước phương Tây như Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Lucxambua với
mục đích bảo vệ lợi ích đế quốc của mình bằng những hoạt động quân sự
tập thể. Nhưng với vị trí kinh tế và quân sự của mình, các nước không thể
đóng vai trò chỉ đạo trong việc lập khối quân sự lớn như thế được và vai
trò này chỉ Mỹ mới có thể đảm nhận.
Đối với Mỹ, an ninh chính trị và quân sự là bộ phận cấu thành quan
trọng trong lợi ích quốc gia. Nó bao gồm: tránh sự bùng nổ của một cuộc
chiến tranh thế giới mới nguy hại đến sự tồn vong của nước Mỹ, đảm bảo
cho thế giới phương Tây không bị uy hiếp về chính trị cũng như quân sự
từ phương Đông. Đó là một mặt mang tính phòng ngự và duy trì hiện
trạng. Mặt khác, trong lợi ích quốc gia, Mỹ còn có tính đến tiến công và
bành trướng, nghĩa là sự mở rộng ảnh hưởng và thế lực của nó trên toàn
thế giới, giữ vai trò chủ đạo trên vũ đài chính trị quốc tế.
Sáng lập Liên Hợp Quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế
giới là con bài chủ đạo trên vũ đài kinh tế, chính trị quốc tế sau chiến
tranh. Thêm vai trò chỉ đạo khối quân sự lớn nhất phương Tây, Mỹ ngày
càng có điều kiện thực hiện mưu đồ của mình, lợi dụng các điều khoản
của Hiệp ước, can thiệp vào công việc nội bộ của các nước hội viên, có
thể dùng tổ chức này để phục vụ cho lợi ích của đế quốc Mỹ, ngăn chặn
được Liên Xô- sự uy hiếp lớn nhất đối với an ninh phương Tây và đóng
vai trò chủ đạo của thế giới.
5
Mỹ theo đuổi mục tiêu sử dụng quân đội và lãnh thổ các nước
thành viên phục vụ lợi ích riêng của mình, biến Tây Âu thành bàn đạp
tiến hành các hoạt động xâm lược. Đồng thời, Mỹ cũng sử dụng khối này
để củng cố sự hiện diện về kinh tế, chính trị, quân sự của họ ở Tây Âu.
Các nước NATO ở Tây Âu chuẩn bị chiến tranh xâm lược trên tất cả các
lĩnh vực quân sự, chính trị, tư tưởng, tiến hành cuộc chạy đua vũ trang
mạnh mẽ chưa từng có. Họ đã bỏ ra chi phí khổng lồ để xây dựng cơ sở
hạ tầng quân dụng và dân dụng phục vụ cho mục đích chuẩn bị chiến
tranh.
1.3. Mục đích hoạt động:
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), là khối quân sự
lớn nhất của các nước phương Tây từ sau Chiến tranh thế giới II do Mĩ
đứng đầu, nhằm chống Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào
giải phóng dân tộc.
Việc thành lập NATO là do Mỹ chủ trương tập hợp lực lượng
phương Tây, trước hết là các nước tư bản phát triển nhất và lớn nhất, trừ
Nhật Bản, để kiềm chế Liên Xô - đối thủ số một đang thách thức lợi ích
toàn cầu của Mỹ.
.
II. NATO trong chiến tranh lạnh:
2.1 Ý đồ của Mỹ - thành viên “nặng ký” nhất trong NATO:
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trước sự lớn mạnh của hệ thống xã
hội chủ nghĩa, Mỹ thực hiện chiến lược kiềm chế Liên Xô, vì thế ngày 4-
4-1949, tại Oasington, 12 nước với những thành viên đầy rẫy những tham
vọng, mà đặc biệt là Mỹ đã kí Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, tuyên bố
thành lập NATO. Việc NATO ra đời chính là một bước tiến mới và cũng
là một bộ phận quan trọng trọng việc thực hiện những kế hoạch bành
6
trướng , thống trị thế giới của Mỹ. Mỹ muốn dựa vào NATO để lôi kéo
các nước thành viên khác vào quỹ đạo chiến lược của mình.
Ý đồ đó của Mỹ được thể hiện ngay trong chiến tranh lạnh, trong
cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xô, và trong việc “cân bằng quyền lực”
giữa hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, Mỹ rất cần sự ủng hộ
của nhiều đồng minh. Việc thành lập NATO cũng có ngầm chứa ý đồ lôi
kéo đồng minh_những kẻ có “máu mặt” sau thế chiến thứ hai của Mỹ.
Không những thế, sau chiến tranh lạnh, khi Liên Xô và khối quân
sự Vacsava không còn tồn tại, Mỹ vẫn thể hiện những tham vọng rõ ràng
của mình. Những khát khao của cường quốc “nặng ký” nhất thế giới lúc
này là muốn sức mạnh tuyệt đối của mình để khống chế cả thế giới tư bản,
bên cạnh đó, Mỹ còn muốn dành lấy những khu vực nằm trong vòng ảnh
hưởng của các nước này, thực hiện chiến lược toàn cầu, mưu đồ làm bá
chủ thế giới đã được nuôi dưỡng từ lâu trong giới lãnh đạo Mỹ. Chính vì
thế, trong cuộc chiến tranh Irac năm 2003, Mỹ cũng muốn lôi kéo cả
NATO vào cuộc chiến, tuy nhiên gặp phải sự phản đối của một số thành
viên mà đứng đầu là Pháp, Đức. Từ việc này cũng hình thành hai phe đó
là phe chủ chiến và phe chủ hòa. Không tìm được sự ủng hộ của đa số
NATO, Mỹ đành phải tiến hành đơn phương.
Với sức mạnh kinh tế và quân sự vượt trội, Mỹ đang không ngừng
thu nạp các đồng minh nhằm đặt các nước này dưới vòng ảnh hưởng của
mình và NATO đang bị biến thành công cụ phục vụ cho chiến lược toàn
cầu của Mỹ. NATO từ một tổ chức phòng thủ đã trở thành một tổ chức
chiến tranh, tham gia vào các cuộc chiến tranh xâm lược do Mỹ phát
động. Các nước châu Âu cũng rất muốn thoát khỏi sự ảnh hưởng của Mỹ
nhưng chưa thực hiện được do còn bị chia rẽ bởi một số nước (đặc biệt là
các thành viên mới) vẫn muốn lệ thuộc vào Mỹ. Sự tồn tại của NATO là
7
mối đe dọa chủ quyền nhiều quốc gia và sự ổn định của thế giới, cũng
như làm tăng thêm tính bá quyền của đế quốc Mỹ.
Chính vì vậy mới nói, những thay đổi và điều chỉnh trong
nguyên tắc hoạt động của cơ chế NATO cũng bị ảnh hưởng nhiều từ
những chuyển mình, những mưa toan, ý đồ của Mỹ.
2,2. Những nguyên tắc hoạt động cơ bản và sự thay đổi trong
thời kỳ chiến tranh lạnh.
2.2.1 Nguyên tắc hoạt động
1. Bảo vệ sự tự do và an ninh của các thành viên của nó
bằng cách sử dụng phương tiện chính trị và quân sự phù hợp với
các mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
2. Phòng thủ tập thể, quy định trong chương 5 của Hiệp
ước Đại Tây Dương. Theo đó, bất kỳ cuộc tấn công chống lại
một trong những quốc gia thành viên được coi là một cuộc tấn
công chống lại tất cả các thành viên trong đồng minh và do đó
đòi hỏi phải hành động quân sự tập thể
3. NATO là một hiện thân của liên kết xuyên Đại Tây
Dương với sự liên kết an ninh của châu Âu và Bắc Mỹ;
4. Hiệp ước Washington bao gồm các nguyên tắc hợp
tác chính trị trong trường hợp xảy ra xung đột kinh tế giữa các
nước thành viên;.
5. Các phương tiện thông qua đó NATO phát triển chính
sách bảo mật của nó bao gồm phát triển liên tục và duy trì khả
năng quân sự tập thể cũng như riêng lẻ của các nước thành
viên;
9. Liên minh vẫn mở cho các thành viên mới. Các quốc gia phải
8
sẵn sàng và có khả năng đóng góp vào an ninh của khu vực Bắc
Đại Tây Dương và được sự nhất trí của tất cả các quốc gia thành
viên (Trong chiến tranh lạnh đã mở rộng ntn)
Trong đó nguyên tắc chính mà Nato đề cập đến là phòng thủ tập
thể (chống cộng). Trong đó, đặc biệt chú trọng đến lĩnh vực quân sự. Có
thể nói quân sự là công cụ đắc lực giúp Nato tực hiện chiến lược phòng
thủ của mình. Có thể thấy điều này đã được thể hiện nhiều trong chủ
nghĩa hiện thực: con đường đảm bảo An ninh thông qua sự liên minh, cân
bằng quyền lực và kiểm soát vũ khí. Theo thuyết này, để phòng vệ bản
thân, quốc gia có nhiều khả năng lựa chọn . Họ có thể trang bị vũ khí,
hình thành liên minh với những quốc gia khác, hay đàm phán kiểm soát
vũ khí, Ở đây Nato đã chọn hình thành liên minh với những quốc gia
khác. Bởi trong thời kỳ chiến tranh lạnh, khi sự đối đầu giữa hai khối
Nato và Vacsava ngày càng mạnh mẽ. Lo ngại về một vacsava lớn mạnh.
Nato luôn thực hiện những biện pháp: chạy đua vũ trang, quân sự
hóa…để nhằm tạo tuyến phòng thủ vững chắc chống lại mọi tầm ảnh
hưởng của các nước trong khối cộng sản. Đó là sự phát triển nhanh chóng
cả về số lượng, lẫn trang bị vũ khí hiện đại: Nếu năm 1949 tổ chức gồm
12 nước Châu Âu thì đến năm 1955 có 15 thành viên( chiếm 15% tổng
dân số thế giới) . Năm 1945 đã có tới 90 sưu đoàn và 9000 máy bay chiến
đấu các loại. Chính diều này đã giúp Mỹ hoàn thành cái gọi là: “ thanh
kiếm và lá chắn” – tạo phòng tuyến vững chắc, bao vây và khống chế LX,
ngăn ảnh hưởng của LX sang các nước khác. Như vậy từ các quan điểm
chung về phát triển quân sự và xây dựng lực lượng vũ trang của các nước
Nato đã thúc đẩy hình thành một bộ máy quân sự thống nhất , tạo điều
kiện tăng sức đột kích của Nato và làm tăng nguy cơ chiến tranh.
Phòng thủ đồng thời cũng bành chướng.
9
Theo nguyên tắc kết nạp thành viên mới, Trong thời kỳ chiến tranh
lạnh mặc dù số lượng thành viên mở rộng không nhiều ( chủ yếu là các
nước Châu âu) . Song, cũng đã có số lượng không nhỏ các quốc gia tham
gia vào Nato. Trong đó đặc biệt phải kể tới vai trò của Tây Đức. Sau
khủng hoảng thành Beclir Đông Đức và Tây Đức bị chia cắt thành 2 miên.
Trong khi Đông Đức gia nhập vào Liên Xô, thì mối lo ngại về sức mạnh
của Liên Xô ngày càng gi tăng trong Mĩ. Đồng thời người ta cũng lo ngại
khối pháp xít Đức sẽ ngày càng mạnh lên, làm ảnh hưởng đến an ninh
khu vực và Quốc tế. Chính vì vậy Nato đã gia sức giúp Tây Đức tái sản
xuất vũ khí quân sự nhằm lôi kéo Tây Đức vào tổ chức. Tuy nhiên hanh
động này cũng đã đi trái với nguyên tắc của Nato. Bới mặc dù Tây Đức
góp phần tằng cường sức mạnh của Nato nhưng lại không được sự nhất
trí của các thành viên trong Nato( P. A) về vấn đề quyền lợi => Tây Đức
gia nhập Nato làm cho Nato trở nên hoàn thiện hay nói cách khác giúp
Mỹ nâng tầm ảnh hưởng hơn..
Như vậy, mặc dù trên nguyên tắc Nato là bảo vệ quyền lợi của tất
cả các nước thành viên. Tuy nhiên thực tế lại không phải như vậy, Mỹ
vẫn “ độc đoán” với vai trò của mình.
2.2.2 Những thay đổi:
Trên thực tế, một tổ chức muốn tồn tại được thì luôn phải phù hợp
với xu thế phát triền của từng thời kỳ qua từng giai đoạn. Nato cũng
không ngoại lệ. Trong giai đoạn chiến tranh lạnh, các nước trong khối có
thị trường thuộc đia rộng lớn, mà chủ yếu các nước thuộc đia đều muốn
đấu tranh để giành độc lập, . Như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến vai trò làm
chủ của nó. Việc chống lại phong trào giải phóng thuộc địa giúp Mỹ thực
hiện được ước mơ nuôi dưỡng từ trong thế chiến thứ 2: “ Tăng cường tối
đa ảnh hưởng của Mỹ, thu hẹp tới mức tối thiểu ảnh hưởng của Pháp và
10
Anh. Chính vì vậy, Nato đã có những thay đổi trong nguyên tắc hoạt
động:
* Từ phòng thủ tấn công-> phản ứng linh hoạt
Dưới sự thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc và hệ thống xã
hội chủ nghĩa lớn mạnh. Mỹ trong thời kỳ này cũng đã mất ưu thế với LX
trong nhiều lĩnh vực quân sự. Đăc biệt là việc P xin rút quân khỏi Nato đã
gây cho Nato và Mỹ những trở ngại không nhỏ. Bởi trong thời kỳ này
Pháp có vai trò về chính trị , kinh tế , rất mạnh.Chính vì vậy, chiến lược
tấn công không còn phù hợp với Nato, thay vào đó là chiến lược “ phản
ứng linh hoạt. Đó là tiếp tục thành lập nhiều cơ quan tổ chức trong khối:
( NAMF), (STAIE) , SNF( Bộ tư lệnh hạt nhân chiến lược tại Châu
Âu).Đồng thời cũng tăng cường chạy đua vũ trang, tăng cường lực lượng
hạt nhân chiến lược . Đặc biệt là tập trung sản xuất và triển khai hàng loạt
các vũ khí mới với sô lượng ngày càng nhiều. Đồng thời hướng tới những
chính sách mới” củng cố và phát triển Nato trong tình hình mới.”
Chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại với VACSAVA
Cuối những năm 70, cơ chế hoạt động của Nato đã dần thay đổi.
Bới bản thân nội bộ cũng đã có những bất đồng: chủ yếu phản đối những
chính sách bành chướng của Mỹ như Hi lạp ( 1974) đã không tham gia
vào tổ chức quân sự của khối, hay sức ép của phong trào giải phóng dân
tộc ở các nuwocs thuộc đia, cũng như vai trò của LX. Chình vì vậy, chính
sách hòa dịu của nicxon là trọng tâm chính trong cơ chế hoạt động của
Nato trong giai đoạn này. Đó là bước chuyển đổi trong quan hệ Đông –
Tây từ đối đầu sang đối thoại:
+ 1985. tai cuộc họp cấp cao Xô – Mỹ ( gionevo) tổng thống Mỹ
ri-gan phải chấp nhận nguyên tắc : Mỹ và Liên Xô trong bất cứ hoàn cảnh
nào cũng không cho phép bùng nổ chiến tranh hạt nhân, hiệp ước xô- Mỹ
11
( 1987) về việc loại bỏ tên lửa đạn đạo tầm ngắn và tầm trung. Cùng với
những chính sách hòa dịu Nato cũng chủ chương tích cực sử dụng hiệu
quả các hiệp ước song phương và đa phương để củng cố hệ thống trong
khối.
III. Những thay đổi và điều chỉnh trong nguyên tắc hoạt động
của NATO sau chiến tranh lạnh:
3.1. Lý do phải thay đổi nguyên tắc hoạt động:
Thế giới ngày nay phải đối mặt với quá nhiều nguy cơ phi truyền
thống. Chống khủng bố, tội phạm quốc tế, tội phạm mạng, di cư bất hợp
pháp, buôn bán vũ khí, con người, ma túy, phổ biến vũ khí và vật liệu hủy
diệt hàng loạt, ảnh hưởng bất lợi của biến đổi khí hậu đòi hỏi phải có đối
thoại, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau, phối hợp các nỗ lực chung trên quy mô
toàn cầu.
Các tổ chức, hệ thống quân sự ra đời trong chiến tranh lạnh liệu
còn có thể tồn tại như một thực thể chính trong quan hệ quốc tế nữa hay
không? Sau chiến tranh lạnh, họ đã thiếu đi sự linh hoạt, hiệu quả và sự
thích hợp trong nhiệm vụ ngăn ngừa xung đột, đối phó những nguy cơ
mới, giảm khả năng thích ứng với tình hình mới, thừa về cấu trúc, chức
năng, thiếu hợp tác trong hành động, sử dụng nguồn lực ( công nghệ, con
người, tài chính) từ các thành viên không hiệu quả.
Đó cũng là lí do vì sao chương trình nghị sự của họ phải cân bằng
được việc đối phó với các nguy cơ và đảm bảo an ninh quốc tế trước hết
là an ninh quốc gia và khu vực. Họ buộc phải thay đổi. NATO là một tổ
chức quân sự, họ cũng không ngoại lệ. Họ là liên minh quân sự lớn nhất
Châu Âu, họ càng không thể không thay đổi.
3.2. NATO hoạt động trên nguyên tắc an ninh hợp tác:
3.2.1. NATO thực hiện nguyên tắc này như thế nào?
12
1. An ninh cá nhân:
Mục đích cuối cùng của an ninh vẫn là bảo vệ cho từng cá thể con
người. Đối với các nước phương Tây, họ rất coi trọng nhân quyền và dân
chủ. Đó là một trong những thước đo mức độ an ninh của họ. Chính vì
vậy, vấn đề cốt lõi và trước hết của một tổ chức quân sự là đảm bảo an
ninh cá nhân.
2. An ninh tập thể:
NATO bảo vệ các thành viên khỏi sự xâm lược lãnh thổ hoặc đe
dọa xâm lược lãnh thổ từ thành viên khác trong khối, cùng nhau đối phó
với các nguy cơ phi truyền thống từ bên ngoài lãnh thổ như khủng bố,
nạn di dân bất hợp pháp, ma túy, vi phạm nhân quyền…
NATO được coi là một trong những tổ chức thực hiện tốt nhất
nhiệm vụ bảo đảm hòa bình trong khối. Bằng chứng là các cuộc xung đột
của các nước thành viên như tranh chấp biên giới giữa Hy lạp và Thổ Nhi
Kỳ( Năm 1996, hai đồng minh trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương (NATO) này từng đứng trước bờ vực chiến tranh do tranh chấp
liên quan đến đảo Aegean, và hiện vẫn tranh cãi về không phận, hải phận
và tình trạng nhập cưbất hợp pháp), tranh chấp quyền được bảo tồn vùng
13
biển nơi diễn ra các hoạt động đánh bắt cá giữa Anh và Ireland, giữa
Canada và Tây Ban Nha hay các xung đột vũ trang của Pháp, Đức,
Italia...chưa bao giờ leo thang thành các cuôc chiến tranh đẫm máu.
Đối phó với nguy cơ khủng bố, NATO luôn tỏ ra sự đoàn kết và
nhất trí của các nước thành viên và đối tác:
Một năm sau sự kiện bi thảm ở New York và Washington ngày 11/
9/2001, tại Hội nghị Prague, các đồng minh thông qua một số sáng kiến
để tăng cường khả năng của NATO để chiến đấu chống lại chủ nghĩa
khủng bố và giải quyết các mối đe dọa an ninh mới. Một sự phòng vệ
quân sự với Khái niệm chống khủng bố được ban hành. Các nước thành
viên phê duyệt Kế hoạch hành động chống khủng bố, trong đó có mặt tất
cả các nước có quan hệ đối tác và chia sẻ thông tin tình báo và nâng cao
chuẩn bị cho một cuộc tấn công tiềm năng chống lại dân thường bằng hóa
chất, hạt nhân và vũ khí sinh học.
Về vấn đề này, NATO đã phê duyệt năm sáng kiến phòng thủ chống lại
hóa chất, hạt nhân và vũ khí sinh học. Một trong những kết quả trực tiếp
là việc thành lập vào tháng năm 2003 của Tiểu đoàn đa quốc gia chống lại
CBRN (hóa học, sinh học, phóng xạ, và vũ khí hạt nhân), có bộ tổng
tham mưu trưởng đặt tại Liberetz, Cộng hòa Séc
Bên cạnh đó, NATO bắt đầu nghiên cứu nội dung trong lĩnh vực phòng
thủ tên lửa đạn đạo, và bắt đầu điều tra cách tăng cường khả năng của
mình để bảo vệ chống lại các cuộc tấn công mạng.
Vào tháng năm 2003, cơ quan chống sự đe dọa khủng bố Intelligence
Unit đã được thành lập, mà có mục đích là để xác nhận khả năng trao đổi
tình báo giữa các nước thành viên. Ngoài ra, cơ chế đã được tạo ra để tạo
điều kiện chia sẻ thông tin tình báo về