Trong lịch sử phát triển của triết học nhân loại triết học Hy Lạp là khúc mở đầu cho giai
đoạn phát triển của triết học phương tây, trong đó triết học cổ đại Hy Lạp với những nhà triết
học xuất chúng như Đémocrite và Platon là khởi nguồn cho mọi sự phát triển của triết học. Tìm
hiểu triết học Hy Lạp cổ đại không gì hơn là tìm hiểu tư tưởng triết học của Đémocrite và
Platon, tìm hiểu sự đấu tranh giữa hai trường phái triết học duy vật và duy tâm.
19 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 8565 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại
Mục lục
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................................. 3
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 3
3. Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại ............................................................................. 3
3.1 Về tự nhiên ....................................................................................................................................3
3.2 Về kinh tế .......................................................................................................................................4
3.3 Về chính trị - xã hội ......................................................................................................................4
3.4 Đặc trưng cơ bản của triết học cổ Hy Lạp..................................................................................6
4. Tư tưởng triết học của Đémocrite và Platon.............................................................................. 6
4.1 Tư tưởng triết học Đémocrite ......................................................................................................6
4.2 Tư tưởng Triết học Platon ............................................................................................................9
5. Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại là sự đấu tranh giữa trường phái Đémocrite và
trường phái Platon............................................................................................................................. 12
Kết luận................................................................................................................................................. 18
NTH-Võ Tiến Lâm Page 2
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển của triết học nhân loại triết học Hy Lạp là khúc mở đầu cho giai
đoạn phát triển của triết học phương tây, trong đó triết học cổ đại Hy Lạp với những nhà triết
học xuất chúng như Đémocrite và Platon là khởi nguồn cho mọi sự phát triển của triết học. Tìm
hiểu triết học Hy Lạp cổ đại không gì hơn là tìm hiểu tư tưởng triết học của Đémocrite và
Platon, tìm hiểu sự đấu tranh giữa hai trường phái triết học duy vật và duy tâm.
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong giai đoạn triết học Hy lạp cổ đại. Với
phương pháp nghiên cứu là phương pháp lịch sử và đối chiếu. Bài nghiên cứu quy mô như một
bài thu hoạch nên các vấn đề được đề cập mang tính khái quát.
3. Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại
3.1 Về tự nhiên
Hy Lạp cổ đại chính là cái nôi của nền triết học phương Tây. Đây là quốc gia rộng lớn có
khí hậu ôn hòa. Bao gồm miền Nam bán đảo Ban Căng (Balcans), miền ven biển phía Tây Tiểu
Á và nhiều hòn đảo ở miền Egee. Hy Lạp được chia làm ba khu vực. Bắc , Nam và Trung bộ.
Trung bộ có nhiều dãy núi ngang dọc và những đồng bằng trù phú, có thành phố lớn như
Athen. Nam bộ là bán đảo Pelopongnedơ với nhiều đồng bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho
việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía Đông của bán đảo Ban Căng khúc khuỷu nhiều vịnh, hải
cảng thuận lợi cho ngành hàng hải phát triển. Các đảo trên biển Êgiê (Egée) là nơi trung
chuyển cho việc đi lại, buôn bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng ven
biển Tiểu Á là đầu mối giao thương giữa Hy Lạp và các nước phương Đông. Với điều kiện tự
nhiên thuận lợi như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có một
nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Nơi có nhiều
triết gia mà triết lý của họ trở nên bất hủ.
NTH-Võ Tiến Lâm Page 3
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại
3.2 Về kinh tế
Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vô cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển cả và lòng nhiệt
thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư duy bay bổng, mở rộng các mối
bang giao và phát triển kinh tế.
Thế kỷ VIII – VI BC, đây là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại là thời kỳ
nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Lúc bấy giờ đồ sắt được dùng phổ
biến, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được cũng cố.
Sự phát triển này đã kéo theo phân công lao động trong nông nghiệp, giữa nghành trồng trọt và
ngành chăn nuôi. Xu hướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ VIII BC là lực đẩy
quan trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lưu với các vùng lân cận. Engels đã nhận xét: “Phải có
những khả năng của chế độ nô lệ mới xây dựng được một quy mô phân công lao động lớn lao
hơn trong công nghiệp và nông nghiệp, mới xây dựng được đất nước Hy Lạp giàu có. Nếu
không có chế độ nô lệ thì cũng không có quốc gia Hy Lạp, không có khoa học và công nghiệp
Hy Lạp”.
3.3 Về chính trị - xã hội
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị - xã hội, xã hội phân hóa ra làm hai
giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa thành lao động chân tay và lao
động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ. Mỗi nước lấy một thành phố làm
trung tâm. Trong đó, Sparte và Athen là hai thành phố cổ hùng mạnh nhất, nồng cốt cho lịch sử
Hy Lạp cổ đại.
Thành bang Athen nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều kiện địa lý
thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy Lạp cổ đại, và là cái nôi của
triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển kinh tế, văn hóa là thiết chế nhà nước chủ nô
dân chủ Athen.
Thành Sparte nằm ở vùng bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát triển nông nghiệp.
Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế Sparte đã xây dựng một
NTH-Võ Tiến Lâm Page 4
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại
thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ.
Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành cuộc chiến tranh
khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất bại của thành Athen. Cuộc chiến
tàn khốc đã lưu lại sự suy yếu nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và quân sự của đất nước Hy
Lạp. Chiến tranh, nghèo đói đã nảy sinh các cuộc nỗi dậy của tầng lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại
vì họ xuất phát từ nhiều bộ lạc khác nhau, không có ngôn ngữ chung, không có quyền hạn,
không được tham gia vào các hoạt động xã hội, chính trị. Chớp lấy thời cơ, Vua Philíp ở phía
Bắc Hy Lạp đã đem quân xâm chiếm toàn bộ bán đảo Hy Lạp thế kỷ thứ II BC, Hy Lạp một
lần nữa bị rơi vào tay của đế quốc La Mã. Tuy đế quốc La Mã chinh phục được Hy Lạp, nhưng
lại bị Hy Lạp chinh phục về văn hóa.
Engels đã nhận xét “không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có
Châu Âu hiện đại được”. Vì điều kiện kinh tế, nhu cầu buôn bán, trao đổi hàng hóa mà các
chuyến vượt biển đến với các nước phương Đông trở nên thường xuyên. Chính vì thế tầm nhìn
của họ cũng được mở rộng, những thành tựu văn hóa của Ai Cập, Babilon đã làm cho người Hy
Lạp ngạc nhiên. Tất cả các lĩnh vực, những yếu tố của nước bạn đều được người Hy Lạp đón
nhận, “Những người Hy Lạp mãi mãi là đứa trẻ nếu không hiểu biết gì về Ai Cập”.
Trong thời đại này Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh vô cùng xán lạn với
những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình thành nên nền văn
minh phương Tây hiện đại.
Về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng văn học thần thoại rất phong phú, những
tập thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn, phản ánh cuộc sống sôi động, lao động bền
bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại những lực lượng tự nhiên, xã hội của người Hy Lạp cổ
đại.
Về nghệ thuật, đã để lại các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa có giá trị.
Về luật pháp, đã sớm xây dựng một nền pháp luật và được thực hiện khá nghiêm tại thành
bang Athen.
NTH-Võ Tiến Lâm Page 5
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại
Về khoa học tự nhiên, những thành tựu toán học, thiên văn, vật lý… được các nhà khoa
học tên tuổi như Thalés, Pythago, Heraclite sớm phát hiện ra. Và đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại
đã để lại một di sản triết học vô cùng đồ sộ và sâu sắc.
3.4 Đặc trưng cơ bản của triết học cổ Hy Lạp
Đỉnh cao của nền văn minh cổ đại đó chính là triết học Hy Lạp cổ đại, và cũng là điểm
xuất phát của lịch sử thế giới. Nhìn chung triết học Hy Lạp có những đặc trưng sau:
-Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị.
- Có sự phân chia và các sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy vật - duy
tâm, biện chứng - siêu hình, vô thần - hữu thần.
- Gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác
nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự
vật, hiện lại xảy ra trong nó.
- Đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác, hoang sơ.
4. Tư tưởng triết học của Đémocrite và Platon
4.1 Tư tưởng triết học Đémocrite
Đémocrite (460-370 tr.CN) sinh trưởng trong một gia đình chủ nô dân chủ ở Ápđerơ
(Hy Lạp). Ông đã đến Ai Cập, Ba Tư, Ấn Độ, nên đã có dịp tiếp xúc với nền văn hoá phương
Đông cổ đại. Ông am hiểu toán học, vật lý học, sinh vật học cũng như mỹ học, ngôn ngữ học
và âm nhạc v.v. Ông có đến 70 tác phẩm nghiên cứu về các lĩnh vực khoa học nói trên. Ông
được Mác và Ăng -ghen coi là bộ óc bách khoa đầu tiên của người Hy Lạp.
Đémocrite là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cổ đại Hy Lạp. Thuyết nguyên tử
là cống hiến nổi bật của ông đối với chủ nghĩa duy vật. Ngoài ra, ông còn có nhiều đóng góp
quý giá về lý luận nhận thức.
a. Thuyết nguyên tử
Thuyết nguyên tử đã được Lơxíp (Leucippe) nêu lên từ trước. Nhưng phải đến Đémocrite học
NTH-Võ Tiến Lâm Page 6
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại
thuyết đó mới trở lên chặt chẽ. Theo ông, vũ trụ được cấu thành từ hai thực thể đầu tiên:
nguyên tử và chân không.
Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy được, không thể phân chia
nhỏ hơn được nữa. Nguyên tử không biến đổi, tồn tại vĩnh viễn và vận động không ngừng.
Nguyên tử không khác nhau về chất, chúng có mùi vị, âm thanh và mầu sắc. Nguyên tử chỉ
khác nhau về hình thức, kích thước, vị trí và trình tự kết hợp của chúng. Có những nguyên tử
hình cầu, hình tam giác, hình móc câu, hình lõm v.v., nhờ đó chúng mới có thể bám dính được
với nhau. Mọi vật thể đều do sự kết hợp giữa các nguyên tử nên nếu tách rời chúng ra thì vật
thể bị tiêu diệt.
Linh hồn của con người cũng do những nguyên tử hình cầu, nhẹ, và nóng tạo nên. Khi
người ta chết, linh hồn sẽ không còn; chúng rời thể xác và tồn tại như những nguyên tử khác.
Chân không là khoảng không gian trống rỗng. Với Đémocrite, chân không cũng cần thiết như
nguyên tử, nhờ nó nguyên tử mới vận động được. Nếu tất cả là đặc sệt các nguyên tử thì sẽ
không có điều kiện cho vận động. Khác với nguyên tử có kích thước, hình dáng, chân không
thì vô hạn và không có hình dáng.
Trong vũ trụ có hằng hà sa số những nguyên tử vận động theo nhiều hướng, khi thì tản
ra, khi tụ lại. Khi tụ vào một điểm nào đó, chúng va chạm vào nhau tạo thành một cơn xoáy
tròn (cơn lốc nguyên tử). Cơn lốc này đẩy những nguyên tử nhỏ, nhẹ ra ngoài chu vi, còn
những nguyên tử to, nặng quy vào tâm, nhờ đó các hành tinh, kể cả trái đất được hình thành.
Những hành tinh xuất hiện và mất đi một cách tự nhiên, không do thần thánh hoặc một ai tạo
ra.
Những phán đoán trên đây về nguyên tử tuy còn nhiều điểm hạn chế (hạt vật chất nhỏ
nhất, không thể phân chia được), nhưng nó đã khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, vũ
trụ là vô cùng, vô tận. Hơn nữa, mặc dù Đémocrite chưa giải thích được nguyên nhân của vận
động, nhưng ông đã gắn liền vận động với nguyên tử, và nó cũng vô cùng, vô tận như nguyên
tử. Đó là một đóng góp hết sức quan trọng đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên và triết
học duy vật. Chính vì quan niệm duy vật và vô thần ấy, ông đã bị tầng lớp thống trị coi là phủ
nhận thần linh và trục xuất ông khỏi quê hương.
NTH-Võ Tiến Lâm Page 7
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại
b. Lý luận về nhận thức
Đémocrite đã có công đưa lý luận nhận thức lên một bước mới. Ông và tiếp theo ông là
Arixtốt, kể cả Platon đã rất chú ý đến nhận thức lý tính, đến lôgíc học. Theo ông, nhận thức của
người ta bắt nguồn từ cảm giác. Nhờ sự vật tác động vào các giác quan mà ta có cảm giác về
chúng. Những cảm giác này có nội dung chân thật, nhưng không đầy đủ, không sâu sắc, nó chỉ
là sự phản ánh cái vỏ bên ngoài của sự vật, chưa phản ảnh được bản chất của sự vật. Bởi vì, nó
chỉ phản ánh được mùi vị, âm thanh, mầu sắc, hình dáng của sự vật, mà không phản ánh được
nguyên tử và chân không. Hơn nữa, mọi nguyên tử đều giống nhau về chất, bản thân chúng
không có mùi vị, mầu sắc, âm thanh và không trông thấy được. Bởi vậy, những cảm giác này
chỉ là chủ quan của con người. Theo ông, muốn nhận thức được nguyên tử và chân không, tức
là muốn nhận thức bản chất của sự vật, con người ta không được dừng lại ở cảm giác, mà phải
biết quy nạp, so sánh, phán đoán, tức là phải đẩy tới nhận thức lý tính. Do đó, ông chia nhận
thức làm hai dạng: dạng nhận thức "mờ tối"(nhận thức cảm tính) và dạng nhận thức “trí tuệ”.
Theo ông, dạng nhận thức thứ hai là chủ yếu, đáng tin cậy hơn. Mặt tích cực trong quan điểm
trên đây là ở chỗ, ông coi đối tượng của nhận thức là thế giới khách quan do nguyên tử và chân
không tạo ra. Tuy chưa nhận thức được sự chuyển hoá giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính, nhưng ông đã thấy được vị trí của từng dạng nhận thức, đặc biệt là nhận thức lý tính. Song
mặt hạn chế trong quan niệm này là ở chỗ, ông coi các thuộc tính khách quan của sự vật như
âm thanh, mùi vị, mầu sắc chỉ là những quy ước chủ quan của con người. Hạn chế này đã mở
đường cho những quan niệm duy tâm cho rằng chất tách rời sự vật, chất có trước và chất có sau
của sự vật v.v.
Từ chỗ coi trọng vai trò của nhận thức lý tính, Đémocrite đã có một công lao to lớn nữa
đối với triết học, đó là lôgíc học (Tác phẩm "Bàn về lôgíc học" (Canon); tác phẩm này đã bị
thất lạc, người ta chỉ biết về nó một cách gián tiếp qua lời của Arixtốt, Platon). Theo đó thì ông
đã nêu ra nhiều vấn đề về lôgíc học như định nghĩa khái niệm, phương pháp so sánh, quy nạp,
giả thiết.v.v, trong đó phương pháp quy nạp có vị trí nổi bật. Arixtốt đã coi Đémocrite là tiền
bối của mình về lôgíc học, là người đầu tiên nghiên cứu lôgíc của khái niệm, lôgíc quy nạp.
c. Quan niệm về con người
NTH-Võ Tiến Lâm Page 8
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại
Theo ông, linh hồn không phải là cái siêu vật chất, mà là cái bản nguyên bằng lửa trong cơ thể;
nó cũng được cấu tạo từ các nguyên tử hình cầu giống như lửa và có tốc độ vận động lớn hơn
các nguyên tử khác.
Sự sống và con người không phải do thần thánh tạo ra mà là kết quả của quá trình biến
đổi của chính tự nhiên, được phát sinh từ những vật thể ẩm ướt dưới tác động của nhiệt độ.
Theo ông, con người là một loại động vật, nhưng về khả năng có thể học được bất kỳ cái gì nhờ
có tay chân, cảm giác và năng lực trí tuệ trợ giúp.
Đémocrite đứng trên lập trường vô thần phủ nhận thượng đế và thần linh; thần chỉ là sự nhân
cách hóa hiện tượng tự nhiên hay thuộc tính của con người.
d. Quan điểm chính trị - xã hội
Đémocrite đứng trên lập trường của chủ nô dân chủ, bảo vệ nền dân chủ Aten chống lại
chế độ chuyên chính. Ông cho rằng “cái nghèo trong chế độ dân chủ cũng quý hơn cái hạnh
phúc của công dân dưới thời quân chủ y như là tự do quý hơn nô lệ”. Nhưng do xuất thân từ
tầng lớp chủ nô nên ông chỉ đề cập đến dân chủ của chủ nô và công dân tự do; còn nô lệ phải
biết tuân theo người chủ.
Ông coi nhà nước là trụ cột của xã hội, cần phải xử lý nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp luật
hay các chuẩn mực đạo đức.
Tóm lại, triết học Đémocrite là sự kế thừa và phát triển lên một trình độ cao các quan
điểm duy vật (của trường phái Milê) và tư tưởng biện chứng (của Hêraclít) trước đó, đưa triết
học của ông trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại.
4.2 Tư tưởng triết học Platon
Platon (427 - 347 TCN) xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở A-ten. Tên thật
của ông là Aristôclơ. Theo Arixtốt, lúc đầu Platon là học trò của Cratin (người theo thuyết
tương đối), sau đó là học trò của Xôcrát (nhà triết học duy lý, duy tâm chủ nghĩa). Khi Xôcrát
bị kết án tử hình vì tội hoạt động chống lại chế độ dân chủ chủ nô, Platon rời Aten đến sống ở
miền nam nước Italia. Trong thời gian này ông có liên hệ với phái Pitago và Ơclít. Sau này ông
trở lại Hy Lạp, lập trường dạy học ở Aten, gọi là Viện hàn lâm (Académie). Đây là trường Đại
NTH-Võ Tiến Lâm Page 9
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại
học tổng hợp đầu tiên ở châu Âu, học trò rất đông, trong đó có nhà triết học nổi tiếng Arixtốt.
Ngót 40 năm giảng dạy và trước tác, ông đã để lại 34 thiên đối thoại và nhiều bức thư triết học.
Tác phẩm "Nước cộng hoà" (République) có vị trí đặc biệt trong triết học của ông.
Platon là nhà triết học duy tâm khách quan, đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy vật đương thời.
Khi nói về hai đường lối, hai trường phái trong triết học, Lênin đã chỉ ra sự đối lập giữa đường
lối duy vật của Đémocrite và đường lối duy tâm của Platon. Tư tưởng triết học của Platon chịu
ảnh hưởng sâu sắc các yếu tố duy tâm trong triết học của Pitago và Xôcrát.
Ngoài những cống hiến của ông về phép biện chứng của ý niệm, vai trò của ý thức xã hội trong
việc hình thành nhân cách và ý thức cá nhân, triết học của ông tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm
thời cổ đại.
a. Học thuyết về ý niệm
Như đã nói ở trên, Platon chịu ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng duy lý trong triết học
Hy Lạp cổ đại (lý luận về cái duy nhất của trường phái Êlê, lý luận về con số của trường phái
Pitago, lý luận về cái phổ biến của Xôcrát). Vì vậy ông xem nhẹ vai trò của nhận thức cảm tính,
tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, của khái niệm. Từ đó ông chia thế giới thành hai
loại: thế giới của những ý niệm (khái niệm) và thế giới của những sự vật cảm tính.
Theo ông, thế giới của những ý niệm là tồn tại chân thực, vĩnh viễn, tuyệt đối, bất biến, nó là
cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính. Còn thế giới các sự vật cảm tính là tồn tại không
chân thực, phụ thuộc vào thế giới của các ý niệm, nó là cái bóng của ý niệm.
Để minh hoạ cho quan niệm thế giới các sự vật cảm tính được sinh ra từ thế giới các ý
niệm như thế nào, Platon đã đưa ra ví dụ "Hang động" như sau: Ở ngoài cửa của một cái hang
tối có một đoàn người đi qua; ánh sáng mặt trời chiếu vào cửa hang làm cho bóng của đoàn
người được in lên vách đá. Nếu nhìn lên vách hang bên trong, người ta sẽ thấy những bóng
người đi qua. Những bóng này chỉ là hình ảnh của đoàn người, chứ không phải bản thân đoàn
người. Thế giới các sự vật cảm tính cũng vậy, nó chỉ là cái bóng của ý niệm đã có từ trước mà
thôi.
Như vậy, khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, Platon cho rằng ý niệm là cái
có trước, là nguyên nhân, là bản chất của sự vật. Còn sự vật chỉ là cái có sau, là cái bắt chước,
NTH-Võ Tiến Lâm Page 10
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại
cái mô phỏng, là bản sao của ý niệm.
Từ thế giới quan trên đây, Platon đã quan niệm một cách duy tâm, thần bí về linh hồn.
Theo ông, thể xác của con người được cấu tạo từ đất, nước, lửa và không khí, nó chỉ là nơi trú
ngụ tạm thời của linh hồn. Linh hồn của con người là sản phẩm của linh hồn vũ trụ được
Thượng đế tạo ra từ lâu. Sau khi được tạo ra, mỗi linh hồn trú ngụ ở một vì sao trên trời, sau đó
dùng cánh bay xuống trần gian và nhập vào thể xác con người. Khi nhập vào thể xác con người
thì nó quên hết mọi quá khứ, do đó