Thời kì Phục hưng của các nước Tây Âu l à giai đoạn lịch sử quá độ từ x ã hội phong
kiến sang xã hội tư bản (thế kỷ XV -XVI). Tính chất quá độ đó biểu hiện tr ên tất cả
các mặt của đời sống kinh tế, chính trị -xã hội, văn hoá t ư tưởng thời kì này.
Về kinh tế: Bắt đầu từthếkỉXV, ởTây Âu, chếđộphong kiến với nền sản xuất
nhỏvà các đạo luật hà khắc Trung c ổđã bước vào thời kì tan rã. Th ời kì phục hưng là
giai đoạn quá độcủa Phương thức sản xuất Tư bản chủnghĩa. Đây là thời kỳtích luỹtư
bản đầu tiên được mởrộng. Người nông dân b ịđuổi ra khỏi ruộng đất của họ, bạo lực của
kẻcường quyền đã tách người lao động ra khỏi tư liệu sản xuất. Nhiều công trường thủ
công xuất hiện, ban đầu ởItalia, sau đó lan sang Anh, Pháp và các nư ớc khác, thay th ế
cho nền kinh tếtựnhiên kém phát tri ển.Các công trường thủcông dần dần át cách làm
ăn kiểu phường hội phong kiến.
Những phát kiến về đ ường biển, tìm ra nh ững miền đất mới, phát hiện ra châu
Mỹ. càng tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất theo h ướng tư bản chủ nghĩa.
Thương mại, thị tr ường trao đổi h àng hoá gi ữa các nước được mở rộng; giao l ưu quốc
tế được tăng c ường, nhờ đó m à các nước phát triển sớm nh ư Anh, Pháp, Tây Ban
Nha. thi nhau xâm chi ếm thuộc địa để mở rộng việc khai thác thi ên nhiên và th ị
trường tiêu thụ hàng hoá.
Vềchính trị -xã hội: Chếđộphong kiến với nền sản xuất nhỏvà các đạo luật hà khắc
của nó đã bước vào giai đoạn lụi tàn. Phong trào ch ống phong kiến của nông dân, thợthủ
công trào dâng khắp Châu Âu. Giai c ấp tư sản trởthành kẻđồng minh. Người ta không
chỉđòi xoá bỏđặc quyền, đặc lợi của giai cấp phong kiến, những chướng ngại trên con
đường phát triển theo xu hướng TBCN mà còn ch ĩa mũi nhọn vào giáo hội La Mã, thành
luỹtinh thần của chếđộphong kiến. Đặc điểm của phong trào đã ảnh hưởng đến toàn bộ
cuộc đấu tranh tư tưởng lúc bấy giờ, bao gồm cảsựphát triển của triết học. Thếgiới quan
của giai cấp tư sản thểhiện dưới hình thức duy vật và vô thần này càng rõ nét.
27 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4636 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lịch sử triết học tây âu thời phục hưng - Cận đại là lịch sử tìm kiếm những phương pháp hiệu quả để chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cho giai cấp tư sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP HOÀ CHÍ MINH
NGAØNH QUAÛN TRÒ KINH DOANH
KHOA ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC
BAÙO CAÙO TIEÅU LUAÄN MOÂN TRIEÁT HOÏC
Đề tài 11
LÒCH SÖÛ TRIEÁT HOÏC TAÂY AÂU THÔØI PHUÏC HÖNG - CAÄN
ÑAÏI LAØ LÒCH SÖÛ TÌM KIEÁM NHÖÕNG PHÖÔNG PHAÙP
HIEÄU QUAÛ ÑEÅ CHÆ ÑAÏO HOAÏT ÑOÄNG NHAÄN THÖÙC VAØ
HOAÏT ÑOÄNG THÖÏC TIEÃN CHO GIAI CAÁP TÖ SA ÛN
GVHD : TS. BUØI VAÊN MÖA
SVTH : TOÁNG THÒ HÖÔNG
LÔÙP : CAO HOÏC D1 K19
Thaùng O3/2010
MỤC LỤC
I. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯNG (THẾ KỶ XV - XVI) ......1
I.1. Tiền đề kinh tế, chính trị - xã hội và khoa học [1,4] .......................1
I.2. Đặc điểm của Triết học thời phục hưng [1,2] .................................2
I.2.1 Triết học thời kỳ này là vũ khí lý luận của giai cấp tư sản trong
cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội................................................2
I.2.2 Tư tưởng của các nhà triết học phục hưng có tính hai mặt: .........2
I.2.3 Triết học thời kỳ này gắn liền với vấn đề nâng cao giá trị khát
vọng giải phóng con người............................................................................3
I.2.4 Triết học thời kỳ này là những tư tưởng xã hội học thấm nhuần
chủ nghĩa nhân văn .......................................................................................3
I.3. Một số triết gia tiêu biểu [1, 2] .......................................................3
I.3.1 Nicolas Copernicus (còn được ghi là Copernide) (1473-1543)....3
I.3.2 Leonardo Da Vinci (1452-1519).................................................3
I.3.3 Giordano Filippo Bruno (1548 – 1600).......................................4
I.3.4 Galiléo Galilée (1564 – 1642).....................................................5
II. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ CẬN ĐẠI (THẾ KỶ XVII - XVIII) .6
II.1. Tiền đề kinh tế, chính trị - xã hội, khoa học [1, 2, 4] ......................6
II.2. Đặc điểm của Triết học Tây Âu thời cận đại [1, 2, 4] .....................7
II.2.1 Ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản ............................................7
II.2.2 Liên minh giữa triết học và khoa học tự nhiên ............................8
II.2.3 Triết học duy vật thế kỷ XVII – XVIII chịu ảnh hưởng nặng nề
sự thống trị của phương pháp siêu hình. ........................................................8
II.2.4 Triết học duy vật thế kỷ XVII – XVIII là triết học duy vật không
triệt để ...................................................................................................9
II.2.5 Triết học Tây Âu thời Cận đại đặc biệt quan tâm đến những vấn
đề về nhận thức và phương pháp luận ...........................................................9
II.2.6 Tư tưởng nhân văn, khai sáng ...................................................10
II.3. Một số trường phái tiêu biểu [1, 2, 3, 4] .......................................11
II.3.1 Triết học của Francis Bacon (1561-1626) – cơ sở của Chủ nghĩa
Duy vật Kinh nghiệm Anh ..........................................................................11
II.3.2 Triết học của Renne Descartes (1596 - 1650) – cơ sở của chủ
nghĩa duy lý tư biện (siêu hình học) ............................................................13
II.3.3 Chủ nghĩa duy tâm chủ quan - bất khả tri .................................14
II.4. Triết học khai sáng và chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp .............16
II.4.1 Tư tưởng duy vật tự nhiên của Charler Luis Secondat
Montesquieu (1689 – 1755) ........................................................................17
II.4.2 Tư tưởng duy vật về lịch sử nhân loại của Jean – Jacque
Rousseau (1712 – 1778)..............................................................................18
II.4.3 Tư tưởng duy vật chiến đấu của Denis Diderot (1713 – 1784) ..21
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................24
Báo cáo Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯNG - CẬN
ĐẠI LÀ LỊCH SỬ TÌM KIẾM NHỮNG PHƯƠNG PHÁP HIỆU
QUẢ ĐỂ CHỈ ĐẠO HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC VÀ THỰC
TIỄN CHO GIAI CẤP TƯ SẢN
I. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯNG (THẾ KỶ XV - XVI)
I.1. Tiền đề kinh tế, chính trị - xã hội và khoa học [1,4]
Thời kì Phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã hội phong
kiến sang xã hội tư bản (thế kỷ XV - XVI). Tính chất quá độ đó biểu hiện trên tất cả
các mặt của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá tư tưởng thời kì này.
Về kinh tế: Bắt đầu từ thế kỉ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản xuất
nhỏ và các đạo luật hà khắc Trung cổ đã bước vào thời kì tan rã. Thời kì phục hưng là
giai đoạn quá độ của Phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa. Đây là thời kỳ tích luỹ tư
bản đầu tiên được mở rộng. Người nông dân bị đuổi ra khỏi ruộng đất của họ, bạo lực của
kẻ cường quyền đã tách người lao động ra khỏi tư liệu sản xuất. Nhiều công trường thủ
công xuất hiện, ban đầu ở Italia, sau đó lan sang Anh, Pháp và các nư ớc khác, thay thế
cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển.Các công trường thủ công dần dần át cách làm
ăn kiểu phường hội phong kiến.
Những phát kiến về đường biển, tìm ra những miền đất mới, phát hiện ra châu
Mỹ... càng tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất theo h ướng tư bản chủ nghĩa.
Thương mại, thị trường trao đổi hàng hoá giữa các nước được mở rộng; giao lưu quốc
tế được tăng cường, nhờ đó mà các nước phát triển sớm như Anh, Pháp, Tây Ban
Nha... thi nhau xâm chiếm thuộc địa để mở rộng việc khai thác thi ên nhiên và thị
trường tiêu thụ hàng hoá.
Về chính trị - xã hội: Chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc
của nó đã bước vào giai đoạn lụi tàn. Phong trào chống phong kiến của nông dân, thợ thủ
công trào dâng khắp Châu Âu. Giai cấp tư sản trở thành kẻ đồng minh. Người ta không
chỉ đòi xoá bỏ đặc quyền, đặc lợi của giai cấp phong kiến, những chướng ngại trên con
đường phát triển theo xu hướng TBCN mà còn chĩa mũi nhọn vào giáo hội La Mã, thành
luỹ tinh thần của chế độ phong kiến. Đặc điểm của phong trào đã ảnh hưởng đến toàn bộ
cuộc đấu tranh tư tưởng lúc bấy giờ, bao gồm cả sự phát triển của triết học. Thế giới quan
của giai cấp tư sản thể hiện dưới hình thức duy vật và vô thần này càng rõ nét.
Đồng thời với sự phát triển của sản xuất v à thương nghiệp, trong xã hội Tây Âu
thời kì này, sự phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt. Giai cấp tư sản xuất hiện gồm các
chủ xưởng công trường thủ công, xưởng thợ, thuyền buôn... Vai trò và vị trí của họ
trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Trong khi người nông dân do không còn ruộng
Thực hiện: Tống Thị Hương Trang 1
Báo cáo Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
đất phải ra thành phố kiếm kế sinh nhai bằng cách làm thuê cho các công trường, xưởng
thợ. Họ là tiền thân của giai cấp vô sản sau này. Các tầng lớp xã hội trên đại diện cho
một nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến đang suy
tàn.
Về khoa học: Do đòi hỏi của thực tiễn sản xuất vật chất, các ngành khoa học tự nhiên
bắt đầu phát triển và đây cũng là thời kỳ gặt hái bội thu về các thành tựu khoa học kỹ thuật
như sử dụng năng lượng nước, dệt, khai mỏ, luyện kim, chế tạo vũ khí, in ấn, hàng hải…
Chẳng hạn với việc sử dụng năng lượng nước đã cho phép thay thế dần sức người và sức
súc vật trong sản xuất.
Chính sự phát triển của khoa học tự nhiên và kỹ thuật đã trở thành chỗ dựa vững chắc
cho giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống thần học và chủ nghĩa duy tâm.
I.2. Đặc điểm của Triết học thời phục hưng [1,2]
Những tư tưởng triết học, những phát kiến khoa học của thời cổ đại được khôi
phục và phát triển. Các nhà tư tưởng tiên tiến của thời đại phục hưng đặc biệt dương
cao ngọn cờ nhân văn. Họ xem con người là đối tượng nghiên cứu của triết học, những
tư tưởng tốt đẹp về con người của Protagore, Xocrate…trở thành tiền đề lý luận cho
ước mơ giải phóng con người. Các giá trị toán học của Talet, hình học của Euclide,
những yếu tố duy vật trong triết học của Epicure,..cũng được xem xét và ghi nhận thoả
đáng.
I.2.1 Triết học thời kỳ này là vũ khí lý luận của giai cấp tư sản trong
cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội.
Các nhà Triết học đã vận dụng các tư tưởng triết học của Hécralite, Épicure,
Démocrite, Empédocle... trong tình hình m ới để bênh vực và phát triển chủ nghĩa duy
vật. Áp dụng các tri thức khoa học tự nhiên để bác bỏ các luận điểm hoang đường phi
lí của triết học kinh viện. Vì vậy, nhiều nhà tư tưởng tiến bộ đã bị giáo hội sát hại, bắt
bớ, cầm tù. Trong cuộc đấu tranh này, chủ nghĩa duy vật đã được phát triển lên một
bước, liên minh giữa chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên ngày càng chặt chẽ hơn.
Cuối cùng, sự chuyên chính của giáo hội và sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện Trung
cổ đã không ngăn được sự phát triển bước đầu của khoa học thực nghiệm v à triết học
duy vật - tiền đề cho những thành tựu mới và những đặc điểm mới của triết học trong
các thế kỷ tiếp theo.
I.2.2 Tư tưởng của các nhà triết học phục hưng có tính hai mặt:
Vừa có những tiến bộ nhưng còn chứa nhiều yếu tố duy tâm, luẩn quẩn với hình
thức “phiếm thần luận” hay “tự nhiên thần luận”.
Thực hiện: Tống Thị Hương Trang 2
Báo cáo Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
I.2.3 Triết học thời kỳ này gắn liền với vấn đề nâng cao giá trị khát vọng
giải phóng con người
Nếu như ở thời kỳ Trung cổ con người chỉ là sinh linh bé nhỏ, tồn tại, thụ động,
như ngọn nến càng cháy càng ngắn thì con người của thời kỳ Phục hưng là thước đo
tất thảy có vẻ đẹp cường tráng của thân thể, sự tinh anh của trí tuệ và chỉ biết thờ
phụng, chiêm ngưỡng chính bản thân mình, với một khát vọng cháy bỏng về tự do.
I.2.4 Triết học thời kỳ này là những tư tưởng xã hội học thấm nhuần
chủ nghĩa nhân văn
Các nhà triết học đã nhìn thấy mặt trái của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, gây
ra thực trạng khốn quẫn, bần cùng của đời sống thợ thuyền lao động. Họ mơ ước một
cuộc sống tốt đẹp hơn cho người lao động, một xã hội bình đẳng không có chế độ tư
hữu. Đó là kiểu chủ nghĩa xã hội của các nhà không tưởng người Anh, người Italia và
người Đức.
I.3. Một số triết gia tiêu biểu [1, 2]
I.3.1 Nicolas Copernicus (còn được ghi là Copernide) (1473-1543)
Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến nhận thức
duy vật về thế giới, nổi trội hơn cả là thuyết nhật tâm của Nicolas Copernicus, nhà bác
học vĩ đại người Ba Lan. Nicolas Copernicus đã đứng trên lập trường của triết học duy
vật để bác bỏ thuyết địa tâm do Ptolémée (người Hy Lạp) đề xuất từ thế kỷ thứ II, một
giả thuyết sai lầm coi quả đất là trung tâm của hệ mặt trời và vũ trụ. Thuyết nhật tâm
của Nicolas Copernicus đã giáng một đòn nặng nề vào thế giới quan tôn giáo, thần
học. Giả thuyết của ông là một cuộc cách mạng trên trời, báo trước một cuộc cách
mạng trong lĩnh vực các quan hệ xã hội sắp xảy ra.Vai trò đấng sáng tạo của Thiên
chúa đã mất đi. Quan niệm về chân lý cũng sai khác, không phải tất cả những gì hiển
nhiên trực tiếp là chân lý. Nếu mặt trời là trung tâm, trái đất xoay quanh mặt trời thì
việc đối lập giữa vận động trên trời và vận động dưới đất, xem vận động trên trời là
hoàn thiện và vận động dưới đất là không hoàn thiện là không thể chập nhận được vì
trên trời và dưới đất không khác nhau về nguyên tắc, đều tuân theo những nguyên tắc
vận động cơ học.
I.3.2 Leonardo Da Vinci (1452-1519)
Ông sinh năm 1452 tại làng Tócane Da VinCi ở Florence (tên của ông được đặt
theo tên làng ông được sinh ra). Ông mất năm 1519 tại lâu đài Amboise (Pháp).
Từ lập trường khoa học tự nhiên, Leonardo đã phê phán các quan niệm thần học và
giáo hội. Ông gọi giáo hội là cửa hàng bịp bợm, thần thánh chỉ là kẻ giả nhân giả
nghĩa; xem tướng người là khoa học giả hiệu; thuật chiêm tinh, luyện đan là giả dối.
Lửa giống như ánh sáng khoa học có nhiệm vụ loại bỏ tất thảy những thứ đó. “Lửa tiêu
diệt sự giả dối, nghĩa là tiêu diệt kẻ nguỵ biện và xua đuổi bóng tối mà vạch ra chân lý.
Thực hiện: Tống Thị Hương Trang 3
Báo cáo Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Lửa có nhiệm vụ tiêu diệt mọi kẻ nguỵ biện, nó là cái vừa giải thích vừa thuyết minh
chân ly cho rằng nó là ánh sáng xua bóng tối đang che giấu bản chất của các sự vật.
Lửa đập tan mỏi kẻ nguỵ biện, nghĩa là đập tan sự lừa bịp và một mình nó vạch ra
chân lý.
Là một hoạ sĩ nhưng với ông tranh không phải là mục đích cuối cùng. Tranh của
ông là những minh chứng mới về bố cục, nội dung tư tưởng, tâm trí con người và màu
sắc. Ông lấy tranh để biểu hiện cái đối lập “Cơ thể của bất cứ vật sống nào cũng đều
luôn luôn chết đi và luôn luôn tái sinh... nhưng nếu ta bù lại số lượng bị tiêu huỷ trong
một ngày, thì sẽ lại nảy ra từng ấy sức sống bị tiêu hao. Chẳng khác gì những ánh sáng
của cây nến do chất nến chảy ra nuôi dưỡng: nhờ nó chất nến chảy ra rất nhanh từ dưới
lên, cây nếnluôn luôn khôi phục được cái chết đi, đã tiêu diệt đi và khi chết đã biến từ
ánh sáng chói lọi thành khói đen”. Ông đã thấy được cái hữu hạn nhỏ bé của con người
trước cái lớn lao vô hạn của tạo hoá. “Dù con người có đạt đến một nền khoa học nào
đi nữa, con người cũng không bao giờ hết quằn quại xót xa về cái bé bỏng của mình
trước tạo hoá”. Tuy vậy, ông lại luôn luôn khám phá với mong mỏi giải phóng con
người khỏi những trói buộc của số phận.
Ông đã đứng trên lập trường của nhà duy vật để phê phán các tín niệm thần học.
Nếu nhà thờ cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ thì ông khẳng định: “Trái đất
không phải ở trung tâm hệ thống mặt trời, cũng như không phải ở trung tâm thế giới
mà ở trung tâp những lực lượng tự phát của nó, những lực lượng gần gũi với nó và liên
kết với nó... Ai đứng trên mặt trăng khi mặt trăng ở cùng với mặt trời ở trên đầu chúng
ta thì đối với người ấy, quả đất là biển cả xung quanh nó sẽ tựa như giữ vai trò của mặt
trăng đối với chúng ta”. Ông kết luận “Trái đất đó là ngôi sao gần giống như mặt
trăng”. Theo ông, các sự vật hiện tượng trong thế giới này đều tuân theo các quy luật
khách quan vì đó là “chủ đề” là “dây cương” điều hành vĩnh viễn.
I.3.3 Giordano Filippo Bruno (1548 – 1600)
Bruno là nhà triết học người Italia. Ông sinh năm 1548 trong m ột thành phố nhỏ -
Nôla. Mồ côi từ nhỏ, ông được nuôi dưỡng trong tu viện. Biến cố quan trọng làm đổ tư
tưởng của ông là do tình cờ ông tiếp xúc được cuốn “Về sự chuyển động của các thiên
thể trên bầu trời” của Copernide. Bruno có những đóng góp quan trọng vào việc phát
triển những tư tưởng biện chứng.
Trước hết là ở chỗ đã đưa ra tư tưởng về sự phù hợp của các mặt đối lập. Với ông,
trong sự thống nhất của thế giới có sự phù hợp giữa cái “tối thiểu và cái tối đa, cái này
mất đi là tiền đề của các khác ra đời”. “Nếu suy nghĩ một cách chín chắn thì chúng ta
sẽ thấy rằng tiêu diệt chẳng qua chỉ là phát sinh, phát sinh chẳng qua chỉ là tiêu diệt.
Tình yêu là lòng căm thù, lòng căm thù là tình yêu. Rốt cục, cằm thù là cái đối lập tức
là căm thù cái thứ hai; do vậy, về mặt thực thể và gốc rễ, tình yêu và căm thù, hữu nghị
và thù hằn là cùng một cái”.
Thực hiện: Tống Thị Hương Trang 4
Báo cáo Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Như vậy các quá trình đối lập trong khi bài trừ phủ định lẫn nhau thì chúng lại
thống nhất với nhau. Quá trình tiêu diệt và sự phát sinh là hai quá trình độc lập nhưng
sự tiêu diệt không khác gì hơn là sự chuyển hoá từ cái này sang cái khác. Trong quá
trình nhận thức, con người chỉ nhận thức được một mặt trong mối quan hệ với những
cái đối lập với nó. Từ sự đối lập với căm thù ta kết luận được thế nào là tình yêu và
ngược lại.
Thứ hai, tư tưởng phát triển
Kế thừa tư tưởng của Héraclite ông cho rằng thế giới này chỉ là một dòng chảy liên
tục, tất cả đều tồn tại trong biến đổi. Tư tưởng phát triển là sự tiếp nối và triển khai
trên nguyên tắc về sự phù hợp của các mặt đối lập.
Về nhận thức, điểm gặp gỡ của Bruno với các nhà triết học cùng thời là khẳng định
chân giá trị của con người thông qua nhận thức. Nhận thức là hướng tới chân lý nhưng
chỉ có một chân lý duy nhất là chân lý của triết học và khoa học. Còn nếu có cái gọi là
chân lý thứ hai thì chỉ là hoang đường và phi lý.
Ông cho rằng đối tượng của nhận thức là giới tự nhiên. Ông đưa ra nguyên tắc
nghi ngờ trong nhận thức. Không nên dựa vào sự thừa nhận của quá khứ khi phán đoán
sự vật khác bắt đầu từ nghi ngờ. Phải dựa vào lý trí trên cơ sở thực nghiệm để đảm bảo
tính xác thực của tri thức. Chân tri thức chứ không phải là của uy quyền là lòng tin mù
quáng.
Quá trình nhận thức được Bruno chia làm ba giai đoạn: cảm giác, lý trí và trí tuệ.
Dựa vào cảm giác, chủ thể chỉ tiếp nhận được dáng vẻ bề ngoài của sự vật chẳng khác
gì nhìn ra ngoài khe cửa hẹp. Nhận thức lý trí tuy đã là sự phát triển về chất nhưng
chân lý chưa bộc lộ đầy đủ mới chỉ là “ánh sáng mặt trời do ánh sáng mặt trăng phản
chiếu”. Chỉ có nhận thức trí tuệ mới nhận được chân lý. Vì vậy đây là giai đoạn cao
nhất của nhận thức.
I.3.4 Galiléo Galilée (1564 – 1642)
Galiléo là nhà vật lý học, toán học, thiên văn học, triết học người Italia. Galiléo tìm
ra định luật quán tính và đã chỉ ra rằng trong chân không, mọi vật thể, dù trọng lượng
thế nào cũng đều rơi xuống đất với một gia tốc như nhau. Từ thực nghiệm ông đi đến
kết luận nếu một vật thể nào đó chuyển động đều, điều này không ảnh hưởng đến tính
chất của quá trình cơ học xảy ra bên trong vật thể đó. Nguyên tắc tương đối này đã trở
thành cơ sở lý luận của ngành vật lý, những quan niệm về không gian, thời gian trong
khoa học tự nhiên thế kỷ XVII-XIX. Tất cả những thành tựu này đã làm cho quan
niệm của thần học về cùng một đề tài trở nên lạc lõng, chỉ thuần tuý là kết quả của
tưởng tượng.
Thế giới quan của Galiléo được xây dựng trên các thành tựu khoa học. Với kính
thiên văn tự tạo ông đã tìm ra những vệ tinh của sao Jupiter, những chấm đen trên mặt
Thực hiện: Tống Thị Hương Trang 5
Báo cáo Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
trời, những dãy núi và khe núi trên mặt trăng, những chòm sao của sông Ngân
hà...Như vậy vũ trụ này chỉ có thể là vật chất và vũ trụ này thống nhất ở tính vật chất.
II. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ CẬN ĐẠI (THẾ KỶ XVII - XVIII)
Thời kì cận đại là thời kì phát triển rực rỡ của Tây Âu trên tất cả các mặt của đời
sống xã hội. Đó là sự phát triển tiếp tục của chủ nghĩa tư bản, của khoa học và tư
tưởng, trong đó có chủ nghĩa duy vật triết học, nhưng với những đặc điểm mới.
II.1. Tiền đề kinh tế, chính trị - xã hội, khoa học [1, 2, 4]
Về kinh tế: Biến đổi trong phương thức sản xuất: phương thức sản xuất tư bản
thay thế từng bước phương thức sản xuất cũ, mở ra khả năng phát triển khoa học, kỹ
thuật, cải tiến công cụ sản xuất. Đồng hồ cơ khí và máy hơi nước là hai chỉ số quan
trọng của nền sản xuất, với vị trí hàng đầu của cơ học. Phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa góp phần phá vỡ các quan hệ xã hội lỗi thời, đơn giản hoá môi trường giao
tiếp, kích thích tính sáng tạo của cá nhân, tạo nên hệ biến thái mới trong đánh giá hoạt
động của con người, xác lập những giá trị, những chuẩn mực phù hợp với thời đại
đang biến đổi nhanh chóng. Có thể khẳng định rằng bằng việc thúc đẩy nhanh hơn tiến
trình lịch sử – xã hội, thời đại tư bản trở thành thời đại năng động nhất, biện chứng
nhất so với các thời đại đã qua.
Quá trình hình thành các quốc gia tư sản hiện đại, mở ra khả năng giao lưu, hợp
tác về kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc với hiệu quả cao hơn trước, khả năng quốc tế
hoá, toàn cầu hoá kinh tế mang tính chất tư bản chủ nghĩa.
Về chính trị- xã hội: Các cuộc cách mạng tư sản đánh dấu bước phát triển mới của
lịch sử nhân lọai: cách mạng tư sản Hà Lan (nửa sau thế kỷ XVI), cách mạng tư sản
Anh (1640), cách mạng tư sản Pháp (1789 – 1794) là những cuộc cách mạng tư sản
tiêu biểu. Đó là những cuộc cách mạng cơ cấu, làm đổi thay cơ cấu xã hội, chủ thể
quyền lực, vị trí con người và nền văn hoá., tạo ra những xung lực mới của tiến bộ xã
hội. Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định rằng
giai cấp tư sản đã từng đóng một vai trò hết sức cách mạ