Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tếnhiều thành phần, vận hành
theo cơchếthịtrường, có sựquản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủnghĩa
ởnước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đềcải tạo thực tiễn nền kinh tếluôn thu hút
sựquan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộphận không thểtách rời với sựphát triển của bất
cứhình thái kinh tếnào. Những vấn đềtriết học vềlý luận nhận thức và thực tiễn,
phương pháp biện chứng. luôn là cơsở, là phương hướng, là tôn chỉcho hoạt động
thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từmột lập trường triết học đúng
đắn, con người có thểcó được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dềdo cuộc
sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ
không chỉ đơn thuần là sựchấp nhận một thếgiới quan nhất định, một cách lý giải nhất
định vềthếgiới, mà còn là sựchấp nhận một cơsởphương pháp luận nhất định chỉ đạo
cho hoạt động.
Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộphận cấu thành của chủnghĩa
Mác. Lênin đã chỉrõ rằng chủnghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của chủ
nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉcó triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơsở
nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tưtưởng
tiến bộ, đềra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn đểxây dựng
và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết
không thểtránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát
triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độcác nước trong khu vực và thế
giới vềmọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủnghĩa xã hội và qua mười
năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đềnêu trên.
27 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 19594 | Lượt tải: 10
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lý luận thực tiễn và sự vận dụng quan điểm đó vào quá trình đổi mới tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận “Lý luận thực tiễn và sự vận dụng
quan điểm đó vào quá trình đổi mới ở
Việt Nam”
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút
sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất
cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn,
phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động
thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học đúng
đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc
sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ
không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất
định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo
cho hoạt động.
Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của chủ
nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở
nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng
tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng
và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết
không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát
triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế
giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua mười
năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải
tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở
nước ta là một vấn ềề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Trang 2
hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Lý luận thực tiễn và sự vận dụng quan
điểm đó vào quá trình đổi mới ở Việt Nam”.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ KHÁI NIỆM
LIÊN QUAN ĐẾN CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
I. THỰC TIỄN
1. Khái niệm
Hoạt động con người chia làm hai lĩnh vực cơ bản. Một trong hai lĩnh vực quan
trọng đó là: hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn: (theo quan điểm triết học Mác xít):
Là những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải tạo, làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
2. Tính vật chất trong hoạt động thực tiễn
Đó là hoạt động có mục đích của xã hội, phải sử dụng những phương tiện vật
chất đề tác động tới đối tượng vật chất nhất định của tự nhiên hay xã hội, làm biến đổi
nó, tạo ra sản phẩm vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.
Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực sự mang
tính chất phê phán và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của thực tiễn, là cơ
sở đề phân biệt hoạt động thực tiễn khác với hoạt động lý luận của con người.
3. Tính chất lịch sử xã hội
Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, hoạt động thực tiễn diễn ra là khác nhau,
thay đổi về phương thức hoạt động.
Thực tiễn là sản phẩm lịch sử toàn thế giới, thể hiện những mối quan hệ muôn
vẻ và vô tận giữa con người với giới tự nhiên và con người với con người trong quá
trình sản xuất vật chất và tinh thần, là phương thúc cơ bản của sự tồn tại xã hội của con
người.
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Trang 3
4. Thực tiễn của con người được tiến hành dưới nhiều hình thức
Trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới, con người tạo ra một hiện thực mới,
một ”thiên nhiên thứ hai”. Đó là thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều
kiện mới cho sự tồn tại của con người, những điều kiện này không được giới tự nhiên
mang lại dưới dạng có sẵn. Đồng thời với quá trình đó, con người cũng phát triển và
hoàn thiện bản thân mình. Chính sự cải tạo hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn là
cơ sở của tất cả những biểu hiện khác có tính tích cực, sáng tạo của con người. Con
người không thích nghi một cách thụ động mà thông qua hoạt động của mình, tác động
một cách tích cực để biến đổi và cải tạo thế giới bên ngoài. Hoạt động đó chính là thực
tiễn.
a,Hoạt động sản xuất vật chất
Là hoạt động thực tiễn quan trọng nhất của xã hội.Thực tiễn sản xuất vật chất là
tiền đề xuất phát để hình thành những mối quan hệ đặc biệt của con người đối với thế
giới, giúp con người vượt ra khỏi khuôn khổ tồn tại của các loài vật.
b.Hoạt động chính trị xã hội
Là hoạt dộng của con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển
và hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt
động sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất con người
bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
c. Hoạt động thực nghiệm khoa học
Là hoạt động thực tiễn đặc biệt vì con người phải tạo ra một thế giới riêng cho
thực nghiệm của khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội.
II, THỰC TIỄN CÓ VAI TRÒ RẤT TO LỚN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu
chuẩn của nhận thức.
1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Trang 4
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các
sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy luật
của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề đòi hỏi
con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành. Như vậy, qua hoạt động
thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới quan( tạo điều kiện cho
nhận thức cao hơn).
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các
giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các
phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
1,Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước
phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy
nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt ra
những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần,
các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu là
mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật vận
động và phát triển của sự vật.
2,Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn.
Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là nhằm cải
tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự hình
thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt động
thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông qua hoạt động
thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của
con người mới có ý nghĩa.
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Trang 5
3,Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó
phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
4,Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
a.Chân lý
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn khẳng
định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người)
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ: chân lý
tôn giáo).
Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì tính hai mặt trong quá
trình nhận thức của nhân loại.
b.Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra chân
lý không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thông qua hoạt
động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện
thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó mới có căn cứ để đánh
giá nhận thức của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay không.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng được
kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.
+Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
+Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể chứng
minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà nó được thực tiễn
tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy mới có
khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận thức.
c.Ý nghĩa:
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Trang 6
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị
trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới: công bằng,
bình đẳng, tién bộ.
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể
muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh doanh
cũng như quản lý các quá trình đó. Đường lối chính sách cũng như các giải pháp kinh
tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao
năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành tựu
to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Những
hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của
giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và công tác lý luận nói
riêng, nhất định sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể
hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Lý luận
a. Khái niệm
Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó phản ánh những
quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
b. Đặc điểm
Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã hội nên
bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng.
Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận và
thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Trang 7
đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội
để thoả mãn nhu cầu của con người.
a. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn. Thực
tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội.
Lý luận không có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức
sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của
thực tiến.
b. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản.
Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được
hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận là do yêu
cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận, không thể thiếu
sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức đúng
đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới có cơ sở
để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là thống
nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
c. Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến bộ
và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng
cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó là một trong những
nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
d. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu thuẫn
nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi đường lối,
chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Trang 8
*Ý nghĩa:
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là lý
luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh tế.
Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu như
không có chỗ đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu xí của
con buôn (Phơ-Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”,
sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi khác đã ”cố gạt thực tiễn ra khỏi lý luận
nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không đáng nghiên cứu về mặt nhận thức luận,
đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi người phân biệt được ảo tưởng với
hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý luận nhận thức... để dọn chỗ cho
chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri”.
V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (“V.I.Lênin toàn tập” – 1980)
Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối với
nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động. Hiện
nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các mặt của đời sống xã hội,
mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ nền kinh tế tập trung quan liêu
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một vấn đề hết sức mới mẻ
chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng không bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau
đó mới đi vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói
riêng và việc nhận thức quá trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn
nhau cùng phát triển.
Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách
quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình. Gắn lý luận
vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở vững chắc. Tinh thần ấy chính là
vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI.
e. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin.
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Trang 9
Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi nhấn mạnh sự
quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận cách mạng
không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động cách mạng, và lý luận
không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Lý luận luôn luôn cần được
bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Những người
cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác _ Lênin cho thích hợp với điều kiện,
hoàn cảnh từng lúc và từng nơi (“Hồ Chí Minh: toàn tập”-1996)
*Con đường biện chứng của sự nhận thức:
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận động,
phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện chứng:
- “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng đến thực
tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại
khách quan”.
+Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình
nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này được hình thành
thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác, biểu tượng...
+Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận
thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại.
- Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa phải
là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải trở về với
thực tiễn vì:
+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải trở về
chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện thực. Vì
vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức, phân biệt đâu
là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Trang 10
+Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về với thực
tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.
- Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến thực
tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm cho nhận thức
của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật
của thế giới khách quan.
CHƯƠNG II
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
I,VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
-Việt Nam nằm ở phía đông của bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông
Nam Á, có một vùng biển rộng, giàu tiềm năng.
-Vị trí tiếp giáp trên đất liền và trên biển tạo điều kiện cho nước ta có thể dễ
dàng giao lưu với các nước trên thế giới.
+Trên đất liền, nước ta giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia. Thông qua các tuyến
giao thông (đường bộ, đường sắt...) với các cửa khẩu quan trọng, Việt Nam có thể liên
hệ với nhiều nước trên thế giới.
+ Nước ta nằm gần các tuyến đường biển quốc tế. Thông qua đường biển, có thể
quan hệ với nhiều quốc gia.
+Vùng biển rộng lớn, giàu tiềm năng cho phép phát triển kinh tế biển.
-Việt Nam là nơi giao thoa của các nền văn hoá khác nhau. Điều đó góp phần
làm giàu bản sắc văn hoá.
-Việt Nam nằm ở khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi động của
thế giới. Từ đó cho phép nước ta có thể dễ dàng hội nhập với các nước trong khu vực
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Trang 11
và trên thế giới. Ta có thể tiếp thu và chọn lọc những bài học, kinh nghiệm thành công
cũng như thất bại về phát triển kinh tế của các nước và vận dụng vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của nước ta.
II, QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1.Tình hình:
- Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã
hội chủ nghĩa lúc đó, nước ta bắt đầu xây dựng một mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập
trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức sản xuất và
dịch vụ quốc doanh được phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác xã được tổ chức
rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, sở hữu
tư nhân bị thu hẹp lại, không còn cơ sở cho tư nhân phát triển. Cùng với quốc doanh,
hợp tác xã được tổ chức rộng rãi vì ta đã học tập được mô hình tổ chức kinh tế của
Liên Xô cũ. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ tận tình của các
nước xã hội chủ nghĩa lúc đó, mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được những
tính ưu việt đó.
- Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng công cụ
kế hoạch hóa, ta đã tập trung được vào trong tay một lực lượng vật chất quan trọng về
cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông thôn, đất đai, máy móc, tiền
vốn để ổn định