Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang trở thành một xu
thế khách quan và tất yếu của tất cả các nước trên thế giới, không kể các nước
đang phát triển hay phát triển, các nước giàu hay nghèo. Trong xu thế đó quốc gia
nào có chiến lược, chính sách, biện pháp và công cụ quản lí hợp lí sẽ mang lại lợi
ích, sự phát triển về kinh tế cho quốc gia đó, ngược lại sẽ mang lại kết quả xấu. Để
có thể tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài đặc biệt là nguồn vốn, tiến bộ khoa
học công nghệ. đòi hỏi các nước phải có sự mở cửa, sự giao lưu, buôn bán hợp
tác với các nước trên thế giới mà đặc biệt là các nước tư bản phát triển. Tuy vậy đi
song song với việc hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta cần phải có sự thống nhất
nhận thức về việc giữ độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập. Đây là một mối lo
ngại lớn với các nước trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển. Mối lo này
phần nào cũng có lí do chính đáng bởi hầu hết các nước đang phát triển đều có
xuất phát điểm từ một nền kinh tế ``nghèo nàn, lạc hậu, khoa học công nghệ còn
thấp kém, năng suất lao động còn chưa cao, sức cạnh tranh về các loại hàng hoá
trên thị trường thế giới thấp trong khi đó các nước đi trước có lợi thế hơn hẳn về
mọi mặt, việc mở rộng quan hệ với các nước đó sẽ dẫn đến tình trạng các nước
kém phát triển khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế và từ chỗ bị lệ thuộc về kinh tế
có thể bị lệ thuộc về chính trị dẫn tới không giữ vững được chủ quyền. Thực tế
ngày nay cho thấy có rất nhiều nước trên thế giới đã bị lệ thuộc quá nhiều vào các
nước tư bản nên mọi đường lối, chính sách phát triển kinh tế đều bị các nước tư
bản này chi phối và nắm giữ. Điển hình như nước Cuba có một thời gian đã bi phụ
thuộc quá nhiều vào Mĩ. Vốn là một nước trồng rất nhiếu mía song khoa học kĩ
thuật của nước này lại thấp kém cho nên để sản xuất đường Cuba phải nhập khẩu
trang thiết bị của Mĩ. Lợi dụng thời cơ này Mĩ đã tìm mọi cách để gây áp l ực về
kinh tế đối với Cuba và buộc Cuba phải lệ thuộc vào Mĩ. Dựa vào đó Mĩ đã nắm
được quyền chi phối về kinh tế cũng như chính trị ở Cuba.
24 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3155 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa hội nhập kinh tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Mối quan hệ biện chứng giữa hội
nhập kinh tế với xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ
I. Mở Đầu
Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang trở thành một xu
thế khách quan và tất yếu của tất cả các nước trên thế giới, không kể các nước
đang phát triển hay phát triển, các nước giàu hay nghèo. Trong xu thế đó quốc gia
nào có chiến lược, chính sách, biện pháp và công cụ quản lí hợp lí sẽ mang lại lợi
ích, sự phát triển về kinh tế cho quốc gia đó, ngược lại sẽ mang lại kết quả xấu. Để
có thể tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài đặc biệt là nguồn vốn, tiến bộ khoa
học công nghệ... đòi hỏi các nước phải có sự mở cửa, sự giao lưu, buôn bán hợp
tác với các nước trên thế giới mà đặc biệt là các nước tư bản phát triển. Tuy vậy đi
song song với việc hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta cần phải có sự thống nhất
nhận thức về việc giữ độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập. Đây là một mối lo
ngại lớn với các nước trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển. Mối lo này
phần nào cũng có lí do chính đáng bởi hầu hết các nước đang phát triển đều có
xuất phát điểm từ một nền kinh tế ``nghèo nàn, lạc hậu, khoa học công nghệ còn
thấp kém, năng suất lao động còn chưa cao, sức cạnh tranh về các loại hàng hoá
trên thị trường thế giới thấp trong khi đó các nước đi trước có lợi thế hơn hẳn về
mọi mặt, việc mở rộng quan hệ với các nước đó sẽ dẫn đến tình trạng các nước
kém phát triển khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế và từ chỗ bị lệ thuộc về kinh tế
có thể bị lệ thuộc về chính trị dẫn tới không giữ vững được chủ quyền. Thực tế
ngày nay cho thấy có rất nhiều nước trên thế giới đã bị lệ thuộc quá nhiều vào các
nước tư bản nên mọi đường lối, chính sách phát triển kinh tế đều bị các nước tư
bản này chi phối và nắm giữ. Điển hình như nước Cuba có một thời gian đã bi phụ
thuộc quá nhiều vào Mĩ. Vốn là một nước trồng rất nhiếu mía song khoa học kĩ
thuật của nước này lại thấp kém cho nên để sản xuất đường Cuba phải nhập khẩu
trang thiết bị của Mĩ. Lợi dụng thời cơ này Mĩ đã tìm mọi cách để gây áp lực về
kinh tế đối với Cuba và buộc Cuba phải lệ thuộc vào Mĩ. Dựa vào đó Mĩ đã nắm
được quyền chi phối về kinh tế cũng như chính trị ở Cuba.
Hiện nay nước Việt Nam ta cũng đang tham gia vào các tổ chức, hiệp hội
trên thế giới. Nước ta cũng là một nước nghèo nàn, lạc hậu hơn rất nhiều so với
các nước khác vì vậy chúng ta phải chủ động tham gia hội nhập kinh tế gắn liền
với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Đảng và nhà nước ta đã xác định
độc lập tự chủ kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản bảo đảm sự bền vững của đất
nước ta về chính trị .
Chính vì việc hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang là một vấn đề nóng
bỏng, cấp bách và cần thiết đối với tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có cả
nước ta. Vì vậy đề tài này có một ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng đối với các
nước trên thế giới trong việc đề ra các đường lối, chính sách trong quan hệ giao
lưu, buôn bán với nước ngoài. Vì lí do nay tôi đã quyết định chọn đề tài "Mối
quan hệ biện chứng giữa hội nhập kinh tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ" với hy vọng bài tiểu luận này sẽ góp một phần nhỏ vào công việc xây dựng
nền kinh tế nước ta ngày càng giàu mạnh .
II. Nội dung
Chương 1:
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
trong phép biện chứng duy vật
1.1. Các định nghĩa:
Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến, nó chẳng qua là bộ
môn khoa học nghiên cứu những quy luật vận động phát triển của tự nhiên, xã hội
và tư duy. Như vậy phép biện chứng đã thừa nhận sự vật, hiện tượng của thế giới
khách quan tồn tại theo mối quan hệ phổ biến, chúng vận động, phát triển theo quy
luật nhất định. Phép biện chứng có nhiệm vụ phải chỉ ra những quy luật đó để định
hướng cho con người trong nhiệm vụ thực tiễn. Phép biện chứng có ba hình thức
cơ bản trong quá trình phát triển của triết học đó là: Phép biện chứng chất phác,
phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật .
Thời cổ đại, do trình độ tư duy phát triển chưa cao, khoa học chưa phát triển
nên các nhà triết học chỉ dựa vào cảm giác, vào cái nhìn trực tiếp để xem xét mọi
vật. Phép biện chứng này còn thiếu nhiều căn cứ khoa học do vậy mà nó đã bị
phép siêu hình, xuất hiện từ nửa cuối thế kỉ XV thay thế. Phép biện chứng duy tâm
xuất hiện trong triết học Cantơ và hoàn thiện trong triết học của Hêghen. Tính chất
duy tâm trong phép biện chứng của Hêghen được thể hiện ở chỗ: Ông coi ý niệm
tuyệt đối có trước và trong quá trình vận động phát triển cuối cùng nó lại trở về
với chính mình trong tinh thần. Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các nhà
triết học trước đó Mác và Anghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và
phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ
thống những nguyên lí, những phạm trù cơ sở, những quy luật phổ biến phản ánh
đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó nguyên lí về mối liên hệ phổ biến là một
trong những nguyên lí khái quát nhất. Mối liên hệ phổ biến là khái niệm đúng để
chỉ sự ràng buộc, nương tựa, tác động qui định lẫn nhau của các sự vật hiện tượng
trong thế giới khách quan. Trong thực tế người ta luôn đặt ra các câu hỏi các sự vật
hiện tượng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau hay không? Những người
theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại trong trạng thái
độc lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Nếu giữa chúng có mối
quan hệ thì cũng chỉ là mối liên hệ bên ngoài. Còn những người theo quan điểm
biện chứng lại cho rằng các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại
độc lập vừa qui định tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau. Phép duy vật biện
chứng khẳng định mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến.
Sự vật là tiền đề, là điều kiện tồn tại và phát triển của nhau. Chúng thường xuyên
thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau làm cho ranh giới giữa các lớp sự vật không phải
là tuyệt đối mà bao giờ cũng có lớp trung gian chuyển tiếp. Mối liên hệ phổ biến
không chỉ diễn ra giữa các sự vật khác nhau mà còn diễn ra trong bản thân từng sự
vật và đều là khách quan. Mặc dù sự vật tồn tại trong những mối liên hệ phổ biến
với nhiều mối liên hệ khác nhau nhưng vị trí, vai trò của từng mối liên hệ không
giống nhau trong tổng số mối liên hệ về sự vật, trong đó có mối liên hệ giữ vai trò
quyết định đén sự tồn tại, vận động biến đổi của sự vật như mối liên hệ bên trong,
bản chất .... Còn những mối liên hệ khác chỉ có những ảnh hưởng nhất định.
Tuy vậy mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, là vốn
có của mọi sự vật, hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri vô giác cũng đang hàng
ngày chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác như: ánh sáng, nhiệt độ, độ
ẩm..... và đôi khi cũng chịu sự tác động của con người. Con người - một sinh vật phát
triển cao nhất trong tự nhiên luôn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng trong
giới tự nhiên và ngay cả các yếu tố trong chính bản thân nó. Ngoài sự tác động của
tự nhiên như các sự vật khác còn tiếp nhận sự tác động của xã hội và của những
người khác. Chính con người và chỉ có con người mới có thể tiếp nhận vô vàn mối
quan hệ đó. Vấn đề là con người phải hiểu biết các mối liên hệ, vận dụng chúng
vào hoạt động của mình giải quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu
lợi ích của xã hội và của bản thân. Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan
mà còn mang tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên hệ được thể hiện ở chỗ:
thứ nhất bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác.
Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay
không một quốc gia nào không có quan hệ, liên hệ với quốc gia khác về mọi mặt
của đời sống xã hội. Chính vì thế hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện xu
hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và
đang trở thành vấn đề toàn cầu như: đói nghèo, bệnh tật ....
Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ
theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới những hình thức nào chúng cũng chỉ là
biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Nghiên cứu mối liên hệ của
các sự vật, hiện tượng trên thế giới ta còn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó.
Dựa vào tính đa dạng đó có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng
cặp: Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và thứ
yếu.... Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại và phát triển bản thân sự vật, hiện
tượng qui định tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy trong một sự vật có thể bao
gồm rất nhiều mối liên hệ chứ không phải chỉ có một mối liên hệ xác định. Song
mỗi cặp mối liên hệ có những đặc trưng riêng tuy theo từng điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể các mối liên hệ tương ứng sẽ giữ vai trò quyết định. Sự phân chia từng cặp
mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức,
một bộ phận của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể
chuyển hoá lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả
của sự vận động và phát triển của chính các sự vật. Tuy sự phân chia thành các
loại mối liên hệ chỉ mang tính tương đối nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết bởi
vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển
của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động
phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình. Từ nội dung
của mối liên hệ phổ biến bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại
trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng phong
phú do đó trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn chúng ta
phải có quan điểm toàn diện tránh quan điểm phiến diện, chỉ xét sự vật, hiện tượng
ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính qui luật của chúng.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi khi ngiên cứu phải xem xét sự vật, phải xem xét tất
cả các mối quan hệ vốn có của nó nhưng không được đặt các mối quan hệ có vị trí
vai trò như nhau. Cần phải phân biệt được đâu là những mối quan hệ bản chất tất
yếu của sự vật, đâu là những mối quan hệ khác để từ đó có kết luận đúng về sự
vật. Trong thực tế theo quan điểm toàn diện khi tác động vào sự vật chúng ta
không những phải chú ý đến những mối liên hệ nội tại của chúng mà còn phải lưu
ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với sự vật khác và sự chuyển hoá lẫn nhau
giữa chúng trong từng điều kiện. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ
các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao
nhất. Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận quan điểm toàn diện góp
phần định hướng chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo hiện thực, cải
tạo chính bản thân chúng ta. Thực hiện đúng quan điểm đó chính là chúng ta đã
nắm được và vận dụng tốt phương pháp biện chứng trong nhận thức về hoạt động
thực tiễn.
1.2 Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là một tất yếu khách quan vừa là yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia trên thế giới
không thể tự mình xây dựng được một nền kịnh tế phát triển bất kể nước ấy giầu
hay nghèo đặc biệt là đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển. Nền
kinh tế của các nước này còn thấp kém, chậm phát triển, khoa học học kỹ thuật
còn thua xa các nước tư bản thì việc mở rộng giao lưu, buôn bán với các nước trên
thế giới là một vấn đề cần thiết và mang tính tất yếu trong giai đoạn hiện nay.
Vịêt Nam cũng nằm trong các nước đang phát triển, xuất phát điểm của nước
ta là một nước nông nghiệp nghèo, do vậy chúng ta cần phải mở rộng quan hệ với
các nước khác nhằm tạo thuận lợi để xây dựng và phát triển kinh tế. Trong Đại hội
Đảng 9 của ta vừa qua, Đảng đã nêu ra "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo
đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và bảo vệ môi trường".
Chương 2:
Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
với hội nhập kinh tế quốc tế
2.1 Một số đặc trưng của nền kinh tế độc lập tự chủ:
Khác với trước đây khi nói tới độc lập tự chủ về kinh tế, nhiều người
thường hình dung tới một nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp. Trong điều kiện
hiện nay đọc lập tự chủ về kinh tế phải là độc lập, tự chủ trong phát triển kinh tế
thị trường và tự chủ mở cửa, hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới, tích cực
tham gia vào sự giao lưu, hợp tác, phân công lao động quốc tế trên cơ sở phát huy
tốt nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia để cạnh tranh có hiệu quả trên thương
trường quốc tế. Do vậy độc lập tự chủ trong điều kiện hiện nay có các đặc trưng
sau: trước hết và quan trọng nhất là phải đảm bảo lợi ích phát triển của quốc gia ở
mức cao nhất có thể được. Có thể có một nền kinh tế không phụ thuộc hoàn toàn
vào bên ngoài, tự đảm bảo được các nhu cầu chủ yếu trong nước. Các mối quan hệ
giữa nước đó với các nước trên thế giới phải được xem xét đánh giá trên tiêu
chuẩn có đảm bảo được lợi ích phát triển của đất nước không? Đó mới là mục tiêu
cho mọi chiến lược phát trển. Trong điều kiện hội nhập quốc tế tiến triển như hiện
nay mọi nền kinh tế ngày càng có sự ràng buộc, phụ thuộc vào các nước khác. Nếu
sự ràng buộc đó đảm bảo tốt hơn cho lợi ích phát triển quốc gia thì đó là một điều
nên làm. Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ đổi mới đã ngày càng mở rộng, giao
lưu với các nước khác; kim ngạch xuất khẩu của ta năm 1999 chiếm tới trên 90%
GDP, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 28% tổng đầu tư xã hội. Đặc trưng thứ hai của
nền kinh tế độc lập tự chủ đó là sức cạnh tranh của nền kinh tế phải được cải thiện
và tăng dần. Sức cạnh tranh này được thể hiện ở các mặt. Thể chế chính trị, kinh tế
xã hội phải đủ mạnh đủ tạo ra một môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, chi phí
và rủi ro thấp; khả năng sinh lợi lớn. Cơ cấu kinh tế gồm những ngành có khả
năng cạnh tranh cao, có khả năng tự điều chỉnh, tự rút khỏi những ngành kém khả
năng cạnh tranh. Cơ cấu doanh nghiệp cũng phải bao gồm những doanh nghiệp có
sức mạnh trên thị trường. Biểu hiện tập trung của sức cạnh tranh của nền kinh tế là
ở chất lượng, giá thành sản phẩm và dịch vụ của đất nước. Nếu sản phẩm và dịch
vụ của một quốc gia có giá thành cao, chất lượng lại thấp thì nó sẽ khó tiêu thụ và
kết cục là gây suy thoái nền kinh tế. Trong điều kiện đó khó có thể nói đến độc lập
và tự chủ. Còn một nền kinh tế làm ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành
thấp thì có thể chiếm lĩnh thị trường trong nước và quốc tế tạo ra thu nhập lớn.
Một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao như vậy trong điều kiện hội nhập kinh tế
hiện nay là một nền kinh tế có tính độc lập, tự chủ cao. Đặc trưng thứ ba của nền
kinh tế độc lập tự chủ đó là khả năng ứng phó có hiệu qủa với những chấn động
chính trị, kinh tế, xã hội bên ngoài. Những chấn động đó có thể là một cuộc khủng
hoảng…
Chiến lược tốt nhất của một quốc gia là cố tránh tham gia những cuộc chiến
tranh ở bên ngoài và tránh để xảy ra xung đột và chiến tranh ở trong nước. Song
một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao, có dự trữ ngoại tệ lớn sẽ có sức chịu đựng
lớn so với nền kinh tế lạc hậu. Một nền kinh tế hội nhập quốc tế cao lợi ích quốc
gia đan xen chặt chẽ với lợi ích của nhiều quốc gia khác, nhiều trung tâm kinh tế
thì sẽ có nhiều khả năng kết sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế để bảo vệ
đất nước tốt hơn.
2.2 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế:
Các nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế nói cung và WTO nêu ra là không
phân biệt đối xử, tiếp cận thị trưởng, cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành động
khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát
triển. Nội dung của hội nhập kinh tế là mở cửa thị trường, tạo điều kiện thuận lợi
để tự do buôn bán, phát triển.
Về thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan
như giấy phép xuất khẩu,… Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường
cho nhau với 4 phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh
thổ, thông qua doanh nhâ, hiện diện thể nhân,…
Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài các yêu cầu
về tỷ lệ nội địa hoá cân bằng xuất nhập khẩu, hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ…
Các nguyên tắc này được tất cả các nước thành viên WTO và các nước đang gia
nhập WTO thừa nhận và thực hiện.
2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
và hội nhập kinh tế.
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, sự tuỳ thuộc lẫn nhau về
kinh tế ngày càng gia tăng, các nước trên thế giới đều rất coi trọn đến khả năng
độc lập tự chủ về kinh tế nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc
mình trong cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt và để xác lập một vị thế chính trị nhất
định trên trường quốc tế.
Độc lập tự chủ về kinh tế phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng với
độc lập tự chủ về chính trị và các mặt khác để tạo thành sức mạnh tổng hợp của
một quốc gia. Độc lập tự chủ vè kinh tế trước hết là không bị chi phối lệ thuộc vào
bên ngoài về đường lối, chính sách phát triển kinh tế vào những điều kiện kinh tế
chính trị mà họ muốn áp đặt cho ta trong trợ giúp, hợp tác song phương, đa
phương,.. mà những điều kiện ấy sẽ gây tổn hại cho chủ quyền quốc gia và lợi ích
cơ bản của dân tộc. Độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là trước những chấn
động của thị trường, của khủng hoảng kinh tế - tài chính, cũng như trước sự bao
vây, cô lập từ bên ngoài vẫn giữ được sự ổn định và phát triển cần thiết, không bị
sụp đổ về kinh tế, chính trị. Khác với trước đây khi nói đến độc lập tự chủ về kinh
tế, nhiều người thường hình dung tới một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp.
Trong điều kiện hiện nay độc lập tự chủ về kinh tế phải là độc lập tự chủ trong
phát triển kinh tế thị trường và chủ động hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế
giới, tích cực tham gia vào sự giao lưu, hợp tác, phân công lao động quốc tế trên
cơ sở phát huy tốt nhất nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia để cạnh tranh có hiệu
qủa trên trường quốc tế. Quan niệm độc lập tự chủ theo kiểu tự cung, tự cấp đã
được kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới chứng minh là không phù hợp với
xu thế của thời đại, và làm cho đất nước ngày càng tụt hậu xa hơn. Đến tình trạng
chậm phát triển về kinh tế không được khắc phục sẽ nảy sinh ra nhiều vấn đề xã
hội nan giải, tạo nguy cơ từ bên trong đối với trật tự, an toàn xã hội và điều đó
cuối cùng sẽ gây cho quốc gia đó khó giữ vững được con đường và mô hình phát
triển đã lựa chọn. Trong vài chục năm gần đây, tình hình thế giới cũng có rất nhiều
biến đổi quan trọng theo các hướng chủ yếu sau đây: một là xu thế hoà bình, hợp
tác và phát triển, xu thế này càng ngày càng trở thành xu thế chính thay thế cho sự
đối đầu giữa các siêu cường, sự xung đột, chạy đua vũ trang giữa hai hệ thống xã
hội đối lập, các cuộc chiến tranh xâm lược đã bị lên án khắp nơi. Đây chính là điều
kiện quan trọng giúp cho các quốc gia có thể mở cửa đất nước tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế để phát triển kinh tế. Mô hình kinh tế phát triển trong xu thế hoà
bình đang thay thế cho mô hình kinh tế trong tình trạng đối đầu và chiến tranh
lạnh. Hai là xu thế phát triển công nghệ đang chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức.
Trong những thập niên vừa qua sự phát triển của công nghệ đang chuyển đổi sang
nền kinh tế vô cùng lớn. Các ngành công nghiệp truyền thống, sản xuất ra các
hàng hoá vật chất, kể cả các ngành công nghiệp nặng đang ngày càng kém hiệu
quả mất dần vai trò quan trọng của chúng với phát triển kinh tế. Trên thực tế trogn
mấy năm gần đây các sản phẩm đã liên tục bị giảm giá, đã giảm