Tiểu luận Môn công pháp quốc tế- Luật biển quốc tế

Từ rất sớm, con người đã có các hoạt động trên biển. Đến thế kỷ XV, các nguyên tắc lớn của Luật biển đã hình thành như Nguyên tắc tự do biển cả, chủ quyền quốc gia trên biển. Năm 1609, Hugo Grotius ( Hà Lan) viết “Mare Liberum” tuyên truyền cho tư tưởng tự do biển cả. John Selden (Anh) viết “Mare Clausum” năm 1653 đại diện cho xu hướng mở rộng quyền lực của quốc gia ven biển ra hướng biển. Luật biển trong thời gian này chủ yếu là các quy tắc, quy phạm mang tính tập quán. Quá trình pháp điển hóa Luật biển phát triển mạnh sau Đại chiến thế giới thứ hai, thông qua ba hội nghị lớn của Liên hợp quốc vào các năm 1958,1960 và năm 1973 – 1982. Trong các hội nghị đó, nhiều vấn đề pháp lý về biển đặt ra trong thực tiễn quốc tế đã dần dần được giải quyết và quan trọng hơn cả là những thành tựu về lập pháp quốc tế đã đạt được của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực luật biển tại Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc. Bằng việc thông qua Công ước 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển ( Công ước 1982) tại Moontegobay(Jamaica), ngày 10 tháng 12 năm 1982,với 320 điều khoản,17 phần và 9 phụ lục, Công ước thực sự là bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế, đề cập toàn diện tất cả các vấn thuộc pháp lý, kinh tế, khoa học kỹ thuật,hợp tác, giải quyết, tranh chấp Đến nay, Công ước đã được 158 nước phê chuẩn và Hiệp định 1994 thay đổi nội dung phần XI của Công ước cũng đã có hiệu lực và ngày 28 tháng 7 năm 1995 và trở thành bộ phận hữu cơ của Công ước. Sự ra đời của công ước quốc tế lớn nêu trên và các quy phạm tập quán hiện hành đã khẳng định sự tồn tại độc lập của Luật biển quốc tế trong hệ thống luật quốc tế. Luật biển quốc tế là tổng hợp các nguyên tắc và quy phạm luật quốc tế, được thiết lập bởi các quốc gia, trên cơ sở thỏa thuận hoặc thông qua thực tiễn có tính tập quán nhằm điều chỉnh quy chế pháp lý các vùng biển cũng như quan hệ hợp tác của các quốc gia trong lĩnh vực này.

doc10 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5884 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Môn công pháp quốc tế- Luật biển quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu Luận MÔN CÔNG PHÁP QUỐC TẾ ĐỀ TÀI: LUẬT BIỂN QUỐC TẾ Giáo Viên Hướng Dẫn: Nguyễn Ngọc Lan Sinh viên: Hà Phương Nhi Lớp: CD01C Hà nội,ngày 29 tháng 10 năm 2010 MỤC LỤC LUẬT BIỂN QUỐC TẾ CÁC NGUYÊN TẮC LUẬT BIỂN VÀ PHƯƠNG PHÁP VẠCH ĐƯỜNG CƠ SỞ THẲNG LIÊN HỆ THỰC TẾ VIỆT NAM I. LUẬT BIỂN QUỐC TẾ Từ rất sớm, con người đã có các hoạt động trên biển. Đến thế kỷ XV, các nguyên tắc lớn của Luật biển đã hình thành như Nguyên tắc tự do biển cả, chủ quyền quốc gia trên biển. Năm 1609, Hugo Grotius ( Hà Lan) viết “Mare Liberum” tuyên truyền cho tư tưởng tự do biển cả. John Selden (Anh) viết “Mare Clausum” năm 1653 đại diện cho xu hướng mở rộng quyền lực của quốc gia ven biển ra hướng biển. Luật biển trong thời gian này chủ yếu là các quy tắc, quy phạm mang tính tập quán. Quá trình pháp điển hóa Luật biển phát triển mạnh sau Đại chiến thế giới thứ hai, thông qua ba hội nghị lớn của Liên hợp quốc vào các năm 1958,1960 và năm 1973 – 1982. Trong các hội nghị đó, nhiều vấn đề pháp lý về biển đặt ra trong thực tiễn quốc tế đã dần dần được giải quyết và quan trọng hơn cả là những thành tựu về lập pháp quốc tế đã đạt được của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực luật biển tại Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc. Bằng việc thông qua Công ước 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển ( Công ước 1982) tại Moontegobay(Jamaica), ngày 10 tháng 12 năm 1982,với 320 điều khoản,17 phần và 9 phụ lục, Công ước thực sự là bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế, đề cập toàn diện tất cả các vấn thuộc pháp lý, kinh tế, khoa học kỹ thuật,hợp tác, giải quyết, tranh chấp…Đến nay, Công ước đã được 158 nước phê chuẩn và Hiệp định 1994 thay đổi nội dung phần XI của Công ước cũng đã có hiệu lực và ngày 28 tháng 7 năm 1995 và trở thành bộ phận hữu cơ của Công ước. Sự ra đời của công ước quốc tế lớn nêu trên và các quy phạm tập quán hiện hành đã khẳng định sự tồn tại độc lập của Luật biển quốc tế trong hệ thống luật quốc tế. Luật biển quốc tế là tổng hợp các nguyên tắc và quy phạm luật quốc tế, được thiết lập bởi các quốc gia, trên cơ sở thỏa thuận hoặc thông qua thực tiễn có tính tập quán nhằm điều chỉnh quy chế pháp lý các vùng biển cũng như quan hệ hợp tác của các quốc gia trong lĩnh vực này. II. CÁC NGUYÊN TẮC LUẬT BIỂN VÀ PHƯƠNG PHÁP VẠCH ĐƯỜNG CƠ SỞ THẲNG 1. CÁC NGUYÊN TẮC LUẬT BIỂN Khi nhắc đến Luật biển thì những nguyên tắc không thể thiếu trong các quy định Luật đề ra trong Công ước 1982 cũng nhưng trong Luật đề ra như: Nguyên tắc tự do biển cả, Nguyên tắc đất thống trị trên biển,Nguyên tắc di sản chung của loài người, Nguyên tắc công bằng. Những nguyên tắc trên đều được áp dụng cho các vùng biền thuộc chủ quyền của mỗi quốc gia. Những vùng biển đó là : Nội thủy va Lãnh hải, Vùng tiếp giáp lãnh hai, Vùng đặc khu kinh tế hay là biển cả đều có những quy định và nguyên tắc chung trong Công ước 1982. Nổi bật trong vùng Lãnh hải ta có thể nhắc đến đó là Phương pháp xác định ranh giới lãnh hải và xác định đường cơ sở thẳng dùng để tính chiều rộng lãnh hải. 2. XÁC ĐỊNH RANH GIỚI VÀ VẠCH ĐƯỜNG CƠ SỞ THẲNG Xác định ranh giới lãnh hải Muốn xác định ranh giới lãnh hải của 1 nước , trước hết phải xác định được đường cơ sở dùng để tính lãnh hải có được đường cơ sở rồi, chỉ cần vẽ tiếp một đường song song với đường cơ sở và cách đường cơ sở một khoảng cách bằng chiều rộng lãnh hải đã được qui định theo luật pháp của nước đó, là có được phạm vi ranh giới của lãnh hải một cách chính xác. Nói cách khác xác định đường cơ sở dùng để tính lãnh hải tức là xác định đường ranh giới phía trong của lãnh hải. vấn đề khó khăn nhất trong thực hiện là cách xác định đường ranh giới phía trong của lãnh hải( đường cơ sở) như thế nào? Vì trên địa hình thực tế muôn màu muôn vẻ, tồn tại nhiều vấn đề về đặc điểm thiên nhiên cần phải chú ý tới như bờ biển thường ghồ ghề, khúc khuỷu có nhiều vịnh, vũng , cửa sông, lại có đảo, có nước thủy triều lên xuống…….việc kẻ đường cơ sở dùng để tính lãnh hải có một ý nghĩa rất thiết thực, do cách kẻ đường cơ sở mà một vùng biển có thể trở thành lãnh hải, hoặc một khu vực lãnh hải có thể thàn vùng nội thủy. Phương pháp vạch đường cơ sở Đường cơ sở là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và phía ngoài của nội thuỷ, do quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo định ra phù hợp với công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 để làm cơ sở xác định phạm vi của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia (lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa). Đường cơ sở thẳng Hiện nay trên thế giới thường áp dụng 2 phương pháp chủ yếu để kể đường cơ sở dùng để tính lãnh hải. phương pháp kẻ đường cơ sở theo ngấn nước thủy triều xuống thấp nhất và phương pháp kẻ đường cơ sở theo các đoạn thẳng gẫy khúc. Phương pháp kẻ đường cơ sở theo nguyên tắc ngấn nước thủy chiều xuống thấp nhất. phương pháp này thường được áp dụng ở những nơi địa hình bờ biển bằng phẳng không lồi lõm. Phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng thường được áp dụng ở những nơi địa hình bờ biển lồi lõm,khúc khuỷu, quanh co hoặc có nhiều hòn đảo gần bờ, ở đấy nước ngấn thủy triều thấp nhất không thể hiện được rõ ràng, nên người ta chọn những điểm ở phía ngoài cùng của các mũi,các điểm nhô ra nhất, các đảo ven bờ, mà khi nối liền chúng lại với nhau thành một đường liên tiếp gãy khúc làm đường cơ sở để tính lãnh hải. đường cơ sở thẳng được xác định bằng phương pháp nối liền bằng các đoạn thẳng những điểm thích hợp có thể được lựa chọn ở những điểm ngoài cùng , nhô ra nhất của bờ biển, tại ngấn nước chiều thấp nhất. trước khi được pháp điển hóa vào điều ước quốc tế, đường cơ sở thẳng là quy định của luật tập quán quốc tế. phán quyết năm 1951 của Tòa án quốc tế trong vụ ngư trường Anh- Na uy được luật quốc tế thừa nhận và được pháp điển hóa trong Điều 4 Công ước GiơNevề lãnh hải và vùng tiếp giáp và điều 7 công ước luật biển 1982.cũng theo công ước này, các điều kiện cần tuân thủ trong khi vạch đường cơ sở thẳng là tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển và các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn với đất liền đủ đến mức được đặt dưới chế độ nội thủy. tuy nhiên, trong khi kẻ một số đoạn đường cơ sở thẳng theo điều 7 của công ước 1982, quốc gia ven biển có thể tính đến những lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà tầm quan trọng của nó đã được sử dụng một quá trình lâu dài chứng minh rõ ràng. Với đường cơ sở thẳng, cần lưu ý đến việc lựa chọn những điểm xuất phát phải không từ bãi cạn nửa nổi nửa chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế, không được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế. Đường cơ sở thẳng là đường cơ sở nối liền các điểm thích hợp và được áp dụng “ở những nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển”, hoặc “ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và do những điều kiện tự nhiên khác” (Điều 7, Công ước Luật biển 1982). Việc vạch đường cơ sở thẳng phải tuân thủ hai điều kiện: Tuyến đường cơ sở thẳng vạch phải đi theo xu hướng chung của bờ biển, và Các vùng biển ở bên trong đường cơ sở này phải gắn với đất liền đủ đến mức đặt dưới chế độ nội thủy, nghĩa là tuyến đường cơ sở thẳng vạch ra không được cách xa bờ. Khi vạch ra đường cơ sở thẳng phải tuân thủ theo các hạn chế sau: Các bãi cạn lúc nổi lúc chìm không được chọn làm các điểm cơ sở trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô lên khỏi mặt nước, hoặc việc kẻ đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế; Khi vạch đường cơ sở thẳng phải lưu ý không được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hay một vùng đặc quyền về kinh tế. Đường cơ sở quần đảo: là đường cơ sở thẳng nối các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá nổi xa nhất của quần đảo. Đường cơ sở thẳng này phải bảo đảm các điều kiện: Khu vực trong đường cơ sở quần đảo phải có tỷ lệ diện tích nước so với đất, kể cả vành đai san hô, từ tỷ số 1/1 đến 9/1. Chiều dài các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý; có thể có tối đa 3% tổng số đường cơ sở dài quá 100 hải lý nhưng cũng không được quá 125 hải lý. Tuyến đường cơ sở không được tách xa rõ rệt đường bao quanh chung của hòn đảo. Đường cơ sở quần đảo không được phép làm cho lãnh hải của một quốc gia khác tách rời khỏi biển cả hay vùng đặc quyền về kinh tế. Đường cơ sở có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định ranh giới các vùng biển. Theo Công ước Luật biển 1982, đường cơ sở được dùng để xác định nội thủy (vùng biển nằm phía bên trong đường cơ sở), lãnh hải (12 hải lý tính từ đường cơ sở), vùng tiếp giáp (24 hải lý tính từ đường cơ sở, vùng đặc quyền về kinh tế (200 hải lý tính từ đường cơ sở)… III. LIÊN HỆ THỰC TẾ VIÊT NAM Việt Nam tuyên bố đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải vào ngày 22-11-1982. Theo Tuyên bố của Chính phủ ngày 12 tháng 11 năm 1982 (sau đây gọi là Tuyên bố 82), hệ thống đường cơ sở của Việt Nam gồm 11 điểm có tọa độ xác định. Hệ thống này thực tế là kiểu đường cơ sở thẳng và còn để ngỏ hai điểm: điểm 0 nằm trên giao điểm giữa đường thẳng nối liền quần đảo Thổ Chu (Việt Nam) và đảo Poulowai (của Campuchia) và đường phân định biên giới giữa hai bên trong vùng nước lịch sử; và điểm kết thúc ở cửa vịnh Bắc Bộ là giao điểm đường cưa vịnh với đường phân dịnh biển trong vịnh Bắc Bộ. Theo Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa nước ta và CHND Trung Hoa ngày 25-12-2000, đường phân định biển trong Vịnh Bắc Bộ và đường cửa vịnh đã được xác lập. Tuy nhiên, đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ chỉ là đường phân định lãnh hải (các điểm từ 1 đến 9) hoặc đường phân định vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa (các điểm từ 9 đến 21) giữa hai nước. Như vậy, theo tinh thần của Hiệp định, Vịnh Bắc Bộ là vịnh chung giữa hai nước, không phải là vịnh lịch sử như trong các tuyên bố năm 1977 và 1982 của ta. Trong thời gian tới, ta sẽ phải xác lập hệ thống đường cơ sở trong vịnh để xác lập nội thủy và các vùng biển khác của ta trong Vịnh Bắc Bộ. Đây là trường hợp hiếm thấy trong tiền lệ phân định biển: Đường cơ sở được xác lập sau đường ranh giới bên ngoài của lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, vì thông thường các đường ranh giới bên ngoài của lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác lập sau khi đã xác lập được đường cơ sở. Trong khi hoạt động trên biển, nhiều bà con thường thấy có phao số 0 và cho rằng đó là biên giới quốc gia trên biển. Sự thực phao số 0 không phải là điểm mốc của đường biên giới quốc gia trên biển. Nó chỉ là điểm đầu tiên của hệ thống mốc tiêu dẫn luồng vào cảng, được đặt theo quy định của Luật Hàng hải. Đối với thực tế của Việt Nam ta, chiều dài bờ biển khoảng 3260 KM, ven biển có nhiều mũi đá nhỏ ra ngoài biển , có nhiều đảo nhỏ ven bờ, và cũng có những nhóm đảo tuy xa bờ, nhưng về mặt địa lý , hành chính, kinh tế và quốc phòng vẫn có những quan hệ trực tiếp lâu đời với hệ thống đảo và bờ biển đất liền thì việc lựa chọn đường cơ sở thẳng bằng cách “ nối liền các điểm nhô ra nhất của bờ biển và các điểm ở phía ngoài cùng các đảo ven bờ của Việt Nam tính từ ngấn thủy triều thấp nhất trở ra là có đầy đủ cơ sở pháp lý, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, cũng như với thực tiễn của Viêt Nam. Tiểu Luận MÔN CÔNG PHÁP QUỐC TẾ ĐỀ TÀI: LUẬT BIỂN QUỐC TẾ Giáo Viên Hướng Dẫn: Nguyễn Ngọc Lan Sinh viên: Hà Phương Nhi Lớp: CD01C Tiểu Luận MÔN CÔNG PHÁP QUỐC TẾ ĐỀ TÀI: LUẬT BIỂN QUỐC TẾ Giáo Viên Hướng Dẫn: Nguyễn Ngọc Lan Sinh viên: Hà Phương Nhi Lớp: CD01C Tiểu Luận MÔN CÔNG PHÁP QUỐC TẾ ĐỀ TÀI: LUẬT BIỂN QUỐC TẾ Giáo Viên Hướng Dẫn: Nguyễn Ngọc Lan Sinh viên: Hà Phương Nhi Lớp: CD01C
Luận văn liên quan