Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường đã phát triển, hàng hoá đã được lưu thông
rộng rãi trong các khu vực, các nước khác nhau trên thế giới. Chính sách mở cửa
của Đảng và Nhà nước đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt của nền kinh tế. Các doanh
nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam
luôn tìm kiếm cho mình những cơ hội kinh doanh mới nhằm thu được lợi nhuận tối
đa, đồng thời bảo đảm được các mục tiêu an toàn và thế lực cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để thực hiện tất cả các mục tiêu đó không phải là điều đơn giản,
đôi khi phải trả những cái giá rất đắt, thậm chí có thể thất bại dẫn đến phá sản.
Nghiên cứu vấn đề này, nhiều nhà kinh tế cho thầy rằng sự thành công hay thất bại
của một doanh nghiệp trên thương trường phụ thuộc rất lớn vào chiến lược cạnh
tranh mà họ đã đề ra. Đã biết rằng, kinh tế thị trường không chỉ là chiếc “nôi” cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn là một “đấu trường”.
Trên thị trường luôn diễn ra sự cạnh tranh gay go khốc liệt giữa các doanh nghiệp
nhằm giành lấy khách hàng. Tìm được các bí quyết để cạnh tranh có hiệu quả là tìm
ra bí quyết của sự tăng trưởng, quyết định vận mệnh của doanh nghiệp .
Công cuộc CNH,HĐH đất nước đã đem lại cho nền kinh tế nước ta một sinh
khí mới và trong đó có ngành công nghiệp dệt may với những động lực và hướng
phát triển mới.
50 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1866 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng Dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số biện pháp thúc đẩy xuất
khẩu hàng Dệt may Việt Nam trên
thị trường thế giới
Lời mở đầu
Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường đã phát triển, hàng hoá đã được lưu thông
rộng rãi trong các khu vực, các nước khác nhau trên thế giới. Chính sách mở cửa
của Đảng và Nhà nước đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt của nền kinh tế. Các doanh
nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam
luôn tìm kiếm cho mình những cơ hội kinh doanh mới nhằm thu được lợi nhuận tối
đa, đồng thời bảo đảm được các mục tiêu an toàn và thế lực cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để thực hiện tất cả các mục tiêu đó không phải là điều đơn giản,
đôi khi phải trả những cái giá rất đắt, thậm chí có thể thất bại dẫn đến phá sản.
Nghiên cứu vấn đề này, nhiều nhà kinh tế cho thầy rằng sự thành công hay thất bại
của một doanh nghiệp trên thương trường phụ thuộc rất lớn vào chiến lược cạnh
tranh mà họ đã đề ra. Đã biết rằng, kinh tế thị trường không chỉ là chiếc “nôi” cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn là một “đấu trường”.
Trên thị trường luôn diễn ra sự cạnh tranh gay go khốc liệt giữa các doanh nghiệp
nhằm giành lấy khách hàng. Tìm được các bí quyết để cạnh tranh có hiệu quả là tìm
ra bí quyết của sự tăng trưởng, quyết định vận mệnh của doanh nghiệp .
Công cuộc CNH,HĐH đất nước đã đem lại cho nền kinh tế nước ta một sinh
khí mới và trong đó có ngành công nghiệp dệt may với những động lực và hướng
phát triển mới.
Cũng như quá trình phát triển của nhiều nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu
của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may đóng một vai trò quan trọng trong
nền kinh tế Việt Nam , với vai trò vừa cung cấp hàng hoá trong nước vừa tạo điều
kiện mở rộng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động, tạo ưu thế cạnh tranh cho
các sản phẩm trên thị trường thế giới, và cũng là ngành có lợi tức tương đối cao.
Chỉ trong 3 năm 1995-1997, giá trị tổng sản lượng của ngành dệt may đã tăng lên
20,3%, trong đó ngành dệt tăng 11,7% ngành may tăng 38,3% so với mức 29.3% của
giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp. Sản phẩm xuất khẩu của ngành dệt may
cũng chiếm một vị trí quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm
1997, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may đạt 1349 triệu USD, chiếm 15,2 % tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước và chiếm trên 70% trong tổng giá trị xuất khẩu của
hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp.
Tuy nhiên, liệu mặt hàng dệt may của nước ta cũng như toàn ngành dệt may
tới đây có tiếp tục duy trì được tốc độ phát triển trở thành một trong những ngành
công nghiệp mũi nhọn của nước ta hay không ? Vấn đề này chỉ có thể giải đáp dựa
trên cơ sở những kết quả nghiên cứu dự báo về triển vọng thị trường thế giới mặt
hàng này cũng như lợi thế và năng lực phát triển ngành dệt may của Việt Nam.
Những biến động trên thị trường thế giới trong thời gian qua đã tác động mạnh mẽ
đến thị trường dệt may nói chung và ngành dệt, may nói riêng càng làm cho việc
nghiên cứu về thị trường hàng dệt may trở nên cấp thiết. Nhằm phân tích, đánh giá
những thuận lợi và khó khăn của hàng dệt may Việt Nam, trên cơ sở đó xác lập
những căn cứ khoa học để dự báo khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam
cũng như đề xuất một số chính sách, giải pháp hỗ trợ cho việc nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng dệt may trong nước thời gian tơí.
Trước những vấn đề đó, với sự khuyến khích của thầy giáo hướng dẫn, tôi đã
chọn đề tài: “Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng Dệt may Việt Nam trên
thị trường thế giới”. Đề tài này tập trung nghiên cứu những biến động thị trường
dệt may trong những năm qua, triển vọng hàng dệt may, khả năng cạnh tranh của
hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới...
Đề tài này gồm những nội dung chủ yếu sau :
Chương I: Vai trò và đặc điểm của ngành Dệt may Việt Nam
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam
Chương III: Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt
may Việt Nam trên thị trường thế giới.
Chương I
vai trò và đặc điểm
của ngành dệt may Việt Nam
I. Vai trò.
Công nghiệp dệt may là ngành có ý nghĩa trọng tâm trong giai đoạn chuyển
đổi của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường.
Dệt may là một phần cấu thành quan trọng trong chính sách địng hướng xuất khẩu của
đất nước, và nói một cách chung hơn, là một trong những nỗ lực của Việt Nam để hòa
nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Công nghiệp dệt may tất yếu là một trong các ngành chủ yếu xuất khẩu trong
giai đoạn đầu phát triển của các nước, xuất khẩu hàng dệt may đem lại nguồn thu
ngoại tệ để mua máy móc thiết bị, hiện đại hoá sản xuất làm cơ sở cho nền kinh tế
cất cánh.
Sự thành công về xuất khẩu trong ngành này thường mở đường cho sự xuất
hiện của một chiến lược phát triển định hướng xuất khẩu có cơ sở rộng hơn. Sự thất
bại về xuất khẩu của ngành này bao giờ cũng là triệu chứng của những trở ngại có
tính thâm căn cố đế trong nước và sự bất lực, không phát huy được lợi thế so sánh
tiềm năng.
Quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nước, trong giai đoạn phát triển dệt may
thường đóng vai trò chủ đạo, nó có khả năng tạo nhiều công ăn việc làm cho người
lao động, tăng thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền đề cho phát triển các ngành công
nghiệp khác, góp phần nâng cao mức sống và ổn định tình hình chính trị xã hội.
Ngành dệt may là ngành có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của các ngành
công nghiệp khác, khi dệt may là một trong những ngành hàng đầu của nền kinh tế
nó sẽ cần một lượng lớn nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực khác và vì thế sẽ
tạo điều kiện để đầu tư phát triển các ngành công nghiệp này.
Tại các nước đang phát triển hiện nay, công nghiệp dệt may đang góp phần
phát triển nông nghiệp và nông thôn qua việc sản xuất các loại nguyên liệu dệt như
bông, đay, tơ tằm và là phương tiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông
nghiệp sang kinh tế công nghiệp, ở các nước công nghiệp phát triển, công nghiệp
dệt may đã phát triển đến trình độ cao hơn, dáp ững nhu cầu ngày càng cao, đa
dạng, phong phú của người tiêu dùng.
II. Đặc điểm
Công nghiệp dệt may đã có ở Việt Nam khoảng một thế kỷ nay, còn những
hoạt động thủ công truyền thống như thêu thùa, đan lát... thì đã có từ lâu. Theo nột
số tài liệu ghi chép thì sự phát triển chính thức của ngành công nghiệp dệt may này
bắt đầu từ khi khu công nghiệp dệt Nam Định được thành lập vào năm 1889. Sau
chiến tranh thế giới thứ hai, ngành công nghiệp này phát triển nhanh hơn, đặc biệt là
ở miền Nam, tại đây các hãng dệt may với máy móc hiên đại của Châu Âu đã được
thành lập. Trong thời kỳ này tại miền Bắc, các doanh nghiệp Nhà nước sử dụng
thiết bị Trung Quốc, Liên Xô và Đông Âu, cũng đã được thành lập. Mặc dù từ những
năm 1970 sau khi thực hiện công cuộc đổi mới thì thời kỳ phát triển quan trọng hướng
về xuất khẩu mới bát đầu.
Vì vậy, công nghiệp dệt may có những đặc điểm sau.
-Về tiêu thụ: Trong buôn bán thế giới, sản phẩm của ngành dệt may là một
trong những hàng hoá đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế. Hàng dệt may có
những đặc trưng riêng biệt ảnh hưởng rất nhiều đến sản xuất và buôn bán. Nghiên
cứu những đặc trưng riêng biệt của thương mại thế giới hàng dệt may là một trong
những yếu tố quan trọng cần thiết ddể tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm và
đảm bảo xuất khẩu thành công trên thị trường quốc tế. Một số đặc trưng đó là:
+Hàng dệt may có yêu cầu phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào đối tượng tiêu
dùng - người tiêu dùng khác nhau về văn hoá, phong tục tập quán, tôn giáo, khác
nhau về khu vực địa lý, khí hậu, giới tính, tuổi tác... sẽ có nhu cầu rất khác nhau về
trang phục. Nghiên cứu thị trường để nắm vững nhu cầu tiêu dùng của từng nhóm
người trong các bộ phận thị trường khác nhau có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
việc tiêu thụ sản phẩm.
+Hàng dệt may mang tính thời trang cao, phải thường xuyên thay đổi mẫu mã,
kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng được nhu cầu thích đổi mới, độc đáo và
gây ấn tượng của người tiêu dùng. Do đó để tiêu thụ được sản phẩm, việc am hiểu
các xu hướng thời trang là rất quan trọng.
+Vấn đề nhã mác cũng là một trong những đặc trưng nổi bật trong buôn bán
hàng dệt may trên thế giới. Mỗi nhà sản xuất cần tạo được nhãn hiệu hàng hoá của
riêng mình. Nhãn hiệu sản phẩm theo quan điểm xã hội thường là yếu tố chứng
nhận chất lượng hàng hoá và uy tín của người sản xuất, đây là vấn đề quan tâm
trong chiến lược của sản phẩm vì người tiêu dùng không chỉ tính đến giá cả mà còn
rất coi trongj chất lượng sản phẩm.
+Trong buôn bán các sản phẩm dệt may cần chú ý đến yếu tố thời vụ. Phải căn
cứ vào chu kỳ thay đổi thời tiết trong năm ở từng khu vực thị trường mà cung cấp
hàng hoá cho phù hợp. Điều này cũng liên quan đến thời hạn giao hàng.
Thói quen tiêu dùng cũng là một đặc điểm cần lưu ý trong buôn bán hàng dệt
may vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề tìm thị trường tiêu thụ chio sản phẩm.
-Về sản xuất: Công nghiệp dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn,
vốn đầu tư ban đầu không quá lớn nhưng lại có tỷ lệ lãi cao. Chính vì vậy, sản xuất
dệt may thường phát triển mạnhvà có hiệu quả rất lớn đối với các nước đang phát
triển và đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, khi một nước trở thành
nước công nghiệp phát triển có trình độ công nghệ cao, sức cạnh tranh trong sản
xuất hàng dệt may giảm thì họ lại vươn tới những ngành công nghiệp khác có hàm
lượng kỹ thuật cao, tốn ít lao động và đem lại nhiều lợi nhuận. Công nghiệp dệt may
lại phát huy vai trò của mình ở các nước kém phát triển hơn. Lịch sử phát triển của
ngành dệt may thế giới cũng là lịch sử chuyển dịch của công nghiệp dệt may từ khu
vực phát triển sang khu vực kém phát triển hơn do sự chuyển dịch về lợi thế so sánh.
Như vậy không có nghĩa là sản xuất dệt may không còn tồn tại ở những nước công
nghiệp phát triển mà thực tế ngành này tiến đến giai đoạn cao hơn, sản xuất các sản
phẩm có giá trị gia tăng cao.
Trong những năm gần đây, sản xuất dệt may của Việt Nam đã có những tiến
bộ nhất định và đang cố gắng để hoà nhập với lộ trình của ngành dệt may thế giới.
-Về thị trường: Các sản phẩm dệt may là một trong những mặt hàng được bảo
hộ chặt chẽ. Trước khi Hiệp định về hàng dệt may - kết quả quan trọng của vòng
đàm phán Uruguay ra đời và phát huy tác dụng, việc buôn bán quốc tế các sản phẩm
dệt may được điều chỉnh theo các thể chế thương mại đặc biệt và nhờ đó phần lớn
các nước nhập khẩu thiết lập các hạn chế số lượng để hạnh chế hang dệt may nhập
khẩ. Mặt khác, mức thuế phổ biến đánh vào hàng dệt may còn cao hơn so với các
hàng hoá công nghiệp khác. Tất cả những rào cản đó ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất
và buôn bán hàng dệt may thế giới.
Chương II
Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam
I. Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam
Theo ước tính kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 1999 có thể đạt 1650 –
1700 triệu USD, tăng 22% so với năm 1998. Với tốc độ phát triển của ngành dệt
may như hiện nay thì việc đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1900 – 2000 triệu USD vào
năm 2000 là có thể trở thành hiện thực
Hiện nay, hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu sang hơn 40 nước trên thế
giới Trong đó xuất khẩu sang các nước EU chiếm 34% đến 38% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta. Trong 9 tháng đầu năm 1999 kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường hạn ngạch chiếm khoảng 39% tăng hơn 3% so
với cùng kỳ năm ngoái, trong đó kim ngạch sang EU chiếm tới 80% trong tổng thị
trường có hạn ngạch.
Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết ngày
15/12/1992 và có hiệu lực từ 1/1/1993 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong
phát triển ngành dệt may nước ta, thể hiện rõ trong kim ngạch xuất khẩu sang thị
trường EU liên tục tăng trong giai đoạn 1993-1997 (tốc độ tăng bình quân hơn
20%/năm), tiếp đến là hiệp định buôn bán dệt may Việt Nam – EU giai đoạn 1998 –
2000 được ký kết ngày 17/11/1997 cho phép nâng hạn ngạch dệt may từ Việt Nam
sang EU tăng lên 40% so với giai đoạn 5 năm 1993-1997 với mức tăng trưởng 3%-
6%/năm
Từ 1995 trở lại đây, trong những thị trường lớn nhập khẩu hàng dệt may Việt
Nam, loại thị trường cần hạn ngạch gồm có 10 nước, trong đó có 9 nước thuộc EU.
Những nước trong EU nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam là Đức (40%-45%),
Pháp (12%-14%), Anh (7%-9%), Hà Lan (10%-14%), Bỉ (4%-5%), Italia (6%-
7%)...
Trong những năm qua, thực trạng của ngành dệt may Việt Nam được tổng hợp
qua ngững vấn đề sau:
1. Về sản lượng.
Số liệu có được chỉ ra rằng ngành công nghiệp dệt may chiếm khoảng 9% tổng
sản lượng công nghiệp năm 1996, thấp hơn năm 1990. Mặc dù ngành dệt may đang
tăng rất chậm, tỷ lệ ngành dẹt trong tổng sản lượng của ngành công nghiệp (6,1%)
lớn hơn ngành may (2,7%).
Ngoài ra số liệu cũng cho thấy sản lượng sợi tăng chậm, mặc dù sản lượng
năm 1996 thấp hơn năm 1990, sản lượng vải thể hiện một xu hướng cũng không
sáng sủa, và bắt đầu từ năm 1993 sản lượng đã tăng lên một cách rõ rệt nhưng đến
năm 1996 cũng chỉ đạt 75% của năm 1985 và chỉ bằng 90% của năm 1990. Sản
lượng ngành may tăng vững chắc hơn, mặc dù tốc đọ tăng thấp hơn so với tỷ lệ tăng
trưởng được thể hiện thông qua các số liệu xuất khẩu (xem bảng 1)
Bảng 1: Sản lượng của ngành dệt may 1991-1997.
Mặt hàng 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
-Số liệu về sản lượng sản
phẩm.
Sợi (1000 tấn) 40 44 38 44 50 57
Vải (triệu mét) 180 272 215 228 221 281
Quần áo (triệu cái) 100 104 91 121 127 200
-Giá trị tổng sản lượng
(tỷ đồng- giá cố định)
Dệt 2.859 3.800 5.278 6.853 9.361 1051
8
1131
7
May 585 700 1.350 3.411 3.411 4.270 5.125
2. Đầu tư nước ngoài :
Từ năm 1998, sau khi Việt Nam bước đầu thực hiện tự do hai chính sách về
FDI, các dự án đầu tư nước ngoài được phê duyệt tăng lên nhanh chóng. Từ năm
1993 trở lại đây, đầu tư nước ngoài đạt trên 100 triệu USD/năm, nhưng năm 1997
và năm 1998 nguồn vốn này đã giảm. Hình thức 100% sở hữu nước ngoài đã hấp
dẫn các nhà đầu tư. Kéo sợi, dệt vải và may mặc được coi là những bộ phận chính
thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Các nước và vùng lãnh thổ Đông á là
những nhà đầu tư chủ yếu, trong đó lớn nhất là Hàn Quốc, Malaysia, và Đài Loan
chiếm 90% tổng đầu tư vào ngành dệt may.
Sau 10 năm ban hành Luật Đầu Tư nước ngoài, tính đến cuối năm 1998, 178
dự án dệt may được cấp giấy phép với vốn đầu tư đăng ký là 1.794,65 triệu USD,
trừ 33 dự án đã giải thể trước thời hạn còn 145 dự án đang hoạt động với tổng số
vốn đầu tư là 1.628,192 triệu USD. Trong đó:
+Ngành dệt: Trừ 12 dự án đã bị giải thể, ngành dệt có 61 dự án với tổng số
vốn đầu tư đăng ký là 1.47,88 triệu USD, trong đó có 30 dự án sản xuất sợi, dệt vải,
dệt kim ; 10 dự án dệt vải lớn, đầu tư đồng bộ từ sản xuất vải tới in , nhuộm hoàn
tất; 3 dự án dệt tơ tằm, lụa; 3 dự án nhuộm; 4 dự án dệt khăn bông và 11 dự án dệt
len, thảm. Trong các dự án trên có 40 dự án ( chiếm 66% so với tổng số dự án )
đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư 1.431,11 triệu USD, gồm 5 dự án đang xây
dựng cơ bản và 35 dự án đã đưa vào hoạt động .
Về hình thức đầu tư, số dự án 100% vốn nước ngoài có xu hướng tăng lên
trong những năm gần đây, trong khi số dự án theo hình thức hợp tác kinh doanh
trền cơ sở hợp đồng giảm đi.
Nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam là Hàn Quốc với 16 trong 40 dự án đang
hoạt động và tổng số vốn đầu tư lên tới677,268 triệu USD; Malaysia – 4dự án với
tổng số vốn đầu tư 477,134 triệu USD, Đài Loan 11 dự án với số vốn đầu tư
137,162 triệu USD, các dự án dệt phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Nam – 37 trong
tổng số 40 dự án đang hoạt động, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh 13 dự án với
vốn đầu tư 723,429 triệu USD, và Đồng Nai- 9dự án với vốn đầu tư 735,875 triệu
USD.
Ngành may mặc : trừ 21 dự án đang xây dựng cơ bản, 47 dự án đã đi vào sản
xuất, còn lại đang làm thủ tục xây dựng cơ bản.
Ngành may không có hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng mà
chỉ theo hai hình thức – Liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Với ưu thế đầu tư của
17 nước, trong đó có Đài Loan đứng đầu với 23 dự án với tổng số vốn đầu tư 56,43
triệu USD, Hàn Quốc 14 dự án với tổng số vốn đầu tư là 21,843 triệu USD, Nhật
Bản 10 dự án với tổng số vốn đầu tư 20,374 triệu USD, Hồng Kông 11 dự án với số
vốn đầu tư 19, 206 triệu USD, Đức 4 dự án với vốn đầu tư 29,058 triệu USD.
Các dự án may cũng nằm chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, trong đó thành phố Hồ
Chí Minh đứng đầu với 40 dự án với tổng số vốn đầu tư 104, 397 triệu USD; Đồng
Nai 12 dự án với tổng số vốn đầu tư 36,679 triệu USD; Bình Dương 8 dự án với số
vốn đầu tư 16,2 triệu USD...
3. Về thiết bị
Ngành dệt hiện có 868.000 cọc sợi, cả sợi bông và sợi pha (bông pha với xơ
PE) với chỉ số Nm (Chỉ số Quốc tế ) tử sợi Nm10 đến Nm102 bao gồm cả sợi chải
kỹ, 43200 máy dệt, trong đó các xí nghiệp Quốc doanh T.W quản lý 11000 máy, xí
nghiệp Quốc doanh địa phương - 3200 máy và Hợp tác xã tư nhân 29000 máy, các
thiết bị nhuộm hoàn tất có thể nhuộm 450 m / năm với các loại vải từ nguyên liệu
dệt khác nhau và các công nghệ nhuộm cũng như công nghệ in hoa khác nhau, các
thiết bị dệt kim có thể sản xuất 20900 tấn sản phẩm / năm, bao gồm 19500 tấn dệt
kim tròn / năm và 1400 tấn dệt kim dọc/năm .
Tuy nhiên, phần lớn số thiết bị ngành dệt hầu hết đã rất cũ và sự thiếu đồng bộ
giữa các khâu. Thiết bị dệt còn quá ít so với thiết bị kéo sợi phần lớn lại là máy dệt
thoi khổ hẹp, chủng loại nghèo nàn, vải làm ra không đáp ứng nhu cầu thị trường...
Về thiết bị kéo sợi cũng có tới hơn 60% là cọc sợi chải thô, chỉ số chất lượng bình
quân thấp chỉ có khoảng 26-30% là cọc sợi chải kỹ chỉ số cao dùng cho dệt kim và
vải cao cấp dây chuyền nhuộm hoàn tất cũng đã lạc hậu phần lớn là thiết bị khổ
hẹp, tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, dẫn đến chi phí cao.
Trong khi đó, trang thiết bị ngành may đã tăng nhanh cả về số lượng và chất
lượng, nhất là về tính năng công dụng, từ máy đạp chân C22 của Liên Xô cũ, máy
8322 của Đức đến JUKI của Nhật Bản và FFAP của CHLB Đức. Số máy chuyên
dùng cũng tăng lên đáng kể để đáp ứng với yêu cầu của sản xuất và của chủng loại
mặt hangf như máy vắt năm chỉ, máy thùa đính, trần dầy pasant, may cạp bốn kim,
bàn là treo, bàn là hơi có đệm hút chân không ... Trong từng công đoạn sản xuất
may cũng được trong bị thêm máy mọc mới với tính năng công dụng mới nhằm
tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm trên mỗi công đoạn của
chu trình sản xuất.
Về công nghệ:
Trong một số năm gần đây đã có một số dây chuyền kéo sợi mới, sử dụng
công nghệ bông chải liên hợp tự động cao, các máy ghép tự động khống chế chất
lượng, ứng dụng các kỹ thuật vi mạch điện tử vào hệ thống điều khiển tự động và
kiểm tra chất lượng sợi, trong khâu dệt vải bông, nhờ sử dụng các thiết bị xe, hấp,
giảm trọng lượng... nhiều sản phẩm giả tơ, giả len, sản phẩm từ microfiber đã bắt
đầu dc sản xuất và tạo uy tín trên thị trường: trong khâu dệt kim, do phần lớn máy
móc được nhập chủ yếu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức... thuộc thế hệ mới,
nhiều chủng loại đã được trang bị Computer đạt năng suất chất lượng cao, tính năng
sử dụng rộng, song công nghệ và đào tạo chưa được nâng cao tương xứng nên mặt
hàng còn đơn điệu, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Trong lĩnh vực may, công nghệ đã có những chuyển biến khá kịp thời. Các
dây chuyền may được bố trí vừa và nhỏ ( 25-26 máy ) , sử dụng 34-38 lao động cơ
động nhanh và có nhân viên kiểm tra thường xuyên, có khả năng chấn chỉnh sai xót
ngay cũng như thay đổi mã hàng nhanh. Khâu hoàn tất được trang bị các thiết bị là
hết diện tích, đóng túi, súng bắn nhãn, máy dò kim... Công nghệ tin học đã được
đưa vào một số khâu thiết kế ở một số công ty lớn.
4. Về lương
Đầu những năm 1990 mức lương trong ngành công nghiệp dệt là một trong
nhữ