Tiểu luận Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu

Hiện nay, trên thế giới xu hướng uống trà ngày càng tăng lên mãnh mẽ do những phát hiện mới ngày càng nhiều hơn về lợi ích của trà đối với sức khoẻ con người. Tại Việt Nam cây chè không chỉ rất thân quen gần gũi mà từ lâu thưởng trà, uống trà đã đi vào đời sống người Việt tạo nên một nét đẹp văn hóa bình dị mà dài lâu. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay của đất nước, cây chè đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia, sản xuất và xuất khẩu chè đang ngày càng đóng vai trò quan trọng và trở thành ngành một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn của cả nước. Đây cũng là khu vực đang trực tiếp giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động cới thu nhập không nhỏ và kích thích, kéo theo hàng loạt các ngành nghề khác cùng phát triển, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến, tạo ra động lực quan trọng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Việt Nam. Với ưu thế về khí hậu, đất đai thổ nhưỡng, lao động và sự ưa chuộng của thị trường thế giới, Việt Nam tự hào ghi tên mình trên bản đổ chè thế giới. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu chè. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động sản xuất và xuất khẩu chè của nước ta vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, yếu kém cần khắc phục. Do đó vấn đề phân tích, đánh giá và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè Việt Nam là một vấn đề mang tính thời sự cần thiết. Chính vì lý do này mà nhóm nghiên cứu đã chọn chè là mặt hàng hấp dẫn để phân tích ưu thế cạnh tranh. Nhằm đáp ứng yêu cầu của môn học chính sách thương mại quốc tế, và trong khuôn khổ kiến thức đã học về lý thuyết lợi thế cạnh tranh nhóm chúng em chỉ xin trình bày một đôi nét về khả năng canh tranh của chè Việt Nam trên thị trường thế giới dựa trên những phân tích cơ bản từ lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia, lý thuyết Heckscher-Ohlin, lợi thế so sánh biểu hiện

doc17 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2409 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Hiện nay, trên thế giới xu hướng uống trà ngày càng tăng lên mãnh mẽ do những phát hiện mới ngày càng nhiều hơn về lợi ích của trà đối với sức khoẻ con người. Tại Việt Nam cây chè không chỉ rất thân quen gần gũi mà từ lâu thưởng trà, uống trà đã đi vào đời sống người Việt tạo nên một nét đẹp văn hóa bình dị mà dài lâu. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay của đất nước, cây chè đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia, sản xuất và xuất khẩu chè đang ngày càng đóng vai trò quan trọng và trở thành ngành một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn của cả nước. Đây cũng là khu vực đang trực tiếp giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động cới thu nhập không nhỏ và kích thích, kéo theo hàng loạt các ngành nghề khác cùng phát triển, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến, tạo ra động lực quan trọng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Việt Nam. Với ưu thế về khí hậu, đất đai thổ nhưỡng, lao động và sự ưa chuộng của thị trường thế giới, Việt Nam tự hào ghi tên mình trên bản đổ chè thế giới. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu chè. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động sản xuất và xuất khẩu chè của nước ta vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, yếu kém cần khắc phục. Do đó vấn đề phân tích, đánh giá và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè Việt Nam là một vấn đề mang tính thời sự cần thiết. Chính vì lý do này mà nhóm nghiên cứu đã chọn chè là mặt hàng hấp dẫn để phân tích ưu thế cạnh tranh. Nhằm đáp ứng yêu cầu của môn học chính sách thương mại quốc tế, và trong khuôn khổ kiến thức đã học về lý thuyết lợi thế cạnh tranh nhóm chúng em chỉ xin trình bày một đôi nét về khả năng canh tranh của chè Việt Nam trên thị trường thế giới dựa trên những phân tích cơ bản từ lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia, lý thuyết Heckscher-Ohlin, lợi thế so sánh biểu hiện…Trong quá trình cập nhật số liệu, nghiên cứu và phân tích đề tài chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, nhóm rất mong nhận được sự đóng góp và nhận xét từ phía các bạn và đặc biệt là cô giáo giảng dạy bộ môn Chúng em hy vọng rằng bài viết sẽ cung cấp những tư liệu, thông tin thảm khảo hữu ích cho các bạn sinh viên đang học môn chính sách thương mại quốc tế, giúp cho bài học trở nên sinh động, thú vị và sát với thực tiễn hơn. Nhóm thuyết trình : Nhóm 1- Lớp A12: Nguyễn Hoài An ( 01 ) Nguyễn Ngọc Hà ( 09) Lê Thanh Hằng (10) Ngô Thị Ngọc Mai ( 24) Phan Thị Thuý ( 37) TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHÈ VIỆT NAM Thực trạng sản xuất chè Việt Nam Diện tích trồng chè Từ năm 1990 đến nay diện tích chè đều tăng. Bình quân giai đoạn 1990-1997 tăng 3,88% năm, giai đoạn 1998-2007 mỗi năm diện tích tăng khoảng 4,91% từ 60.000 ha năm 1990 lên 77.400 ha năm 1998 và đạt 125.700 ha năm 2007. Bảng 1-1: Diện tích và sản lượng chè trên cả nước qua các năm Năm  Diện tích   Sản lượng     Giá trị (ha)  Tốc độ (%)  Giá trị (tấn)  Tốc độ (%)   2002  109,3  11,2     2003  116,2  6,3     2004  120,8  3,96     2005  122,5  1,4     2006  122,9  0,33     2007  125,7  2,28     (Nguồn: Niên giám thống kê 2007) Qua bảng 1-1 ta thấy những năm gần đây diện tích trồng chè của Việt Nam tăng ở mức trung bình. Ngành chè Việt Nam đã có nhiều khởi sắc và sẽ phát triển mãnh mẽ trong thời gian tới. Theo thống kê của tổng công ty chè Việt Nam, hiện nay có gần một nửa số tỉnh thành trong cả nước trồng chè nhưng phát triển mạnh nhất là ở các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Yên Bái, Sơn La, Lâm Đồng. Chè Việt Nam được các chuyên gia đánh giá là có hương vị thơm ngon đặc trưng. Sản lượng chè Giai đoạn 1990-1997, sản lượng tăng bình quân 7,23% năm, từ 32.200 tấn năm 1990 lên 52.200 năm 1997. Giai đoạn 1998-2007 sản lượng tiếp tục tăng bính quân (chưa tính). Sản lượng toàn ngành chè tăng khá cao, năm 2008 Việt Nam đứng trong hàng top 10 các nước sản xuất chè lớn nhất trên thế giới, chiếm khoảng 7% sản lượng chè toàn thế giới. Chất lượng sản phẩm chè Việt Nam Chất lượng sản phẩm chè trong những năm gần đây đã được nâng lên rõ rệt cả về ngoại hình lẫn nội chất. Từ năm 1990 đến nay, Tổng công ty chè Việt Nam chỉ nhập kho sản phẩm tiêu chuẩn thấp nhất là loại hai, chính vì vậy chất lượng chè xuất khẩu của Tổng công ty tăng lên đáng kể, thị trường chè Việt Nam nhờ đó mà được mở rộng do nâng cao được năng lực cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Tuy nhiên hiện nay chất lượng chè Việt Nam còn thấp so với mặt bằng thế giới. Nhìn chung khâu chế biến chưa giữ gìn và phát huy tính tốt của nguyên liệu, các thông só kỹ thuật bị vi phạm ở nhiều công đoạn dẫn đến chất lượng sản phẩm chè còn nhiều khuyết tật, số lượng chè bị trả lại cao Tình hình xuất khẩu chè Việt Nam Quy mô xuất khẩu Quy mô xuất khẩu thể hiện qua khối lượng và kim ngạch tăng với tốc độ khá cao. Với ưu thế về khí hậu, nguồn tài nguyên đất đai, lao động và sự ưa chuộng của thị trường thế giới, sản xuất chè đã trở thành tập quán canh tác cùa nông dân Việt Nam và ngày càng khắng định vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như trong sản xuất nông nghiệp nói riêng, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu. Năm 2007 tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu chè trên tổng kim ngạch của cả nước là 0,27% đóng góp vào GDP (71,46 tỷ $) là 0,19%, góp phần quan trọng vào tạo nguồn vốn bằng ngoại tệ để nhập khẩu vật tư thiết bị phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sang năm 2008, theo thống kê, 6 tháng đầu năm xuất khẩu chè đạt 127,3 triệu USD, với hơn 264.000 tấn chè, tăng 180,43% về trị giá và 72,71% về lượng so cùng kỳ. Giá chè xuất khẩu trung bình 6 tháng đầu năm đạt khoảng 1.312 USD/tấn, tăng 37% so cùng kỳ. Hiện nay, Việt Nam đứng hàng thứ 5 trên thế giới cả về sản lượng và xuất khẩu. Cơ cấu thị trường xuất khẩu Tính đến thời điểm này, sản phẩm chè Việt Nam đã có mặt tại hơn 118 quốc gia và vùng lãnh thổ. Năm 2005 chiếm 5,74% thị phần chè của thế giới. Năm 2006 con số này là 6,78%. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thị trường đối với sự ổn định và phát triển của sản xuất và xuất khẩu, nên các doanh nghiệp đã tổ chức tốt công tác nghiên cứu, xúc tiến thương mại nhằm mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó cơ cấu thị trường tuy đang được thay đổi theo hướng đa dạng hóa nhưng vẫn tập trung đột phá vào các thị trường trọng điểm như Irac, Pakistan, Đài Loan, Ấn Độ…vốn là những thị trường lớn hàng năm nhập hơn 2000 tấn chè. Bảng 1-3: Một số thị trường xuất khẩu chủ yếu của chè Việt Nam năm 2006 Tên nước  Tháng 12/06  12 tháng 2006    Lượng (tấn)  Trị giá (USD)  Lượng (tấn)  Trị giá (USD)   Ấn Độ  305  237.857  11.074  8.203.748   Tiểu VQ Arập TN  211  314.799  1.106  1.429.490   Đài Loan  1.808  1.108.362  18.459  19.454.279   CHLB Đức  409  529.674  3.445  3.996.993   Hà Lan  240  279.756  2.231  2.499.876   Indonêsia  784  491.898  2.467  1.697.287   Malaysia  306  209.784  2.419  1.181.938   Mỹ  325  246.866  2.087  1.584.995   LB Nga  1.412  1.373.693  10.364  10.142.726   Nhật Bản  35  56.076  435  1.084.457   Philippin  65  186.472  508  1.426.814   Thổ Nhĩ Kỳ  91  126.376  1.260  1.690.906   Trung Quốc  610  632.487  7.622  7.615.725   (Nguồn: Kim ngạch xuất khẩu chè Việt Nam 2006, Vietnamnet, 27/02/2007) MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐỊNH LƯỢNG VÀ LÝ THUYẾT VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một sản phẩm, mô hình kim cương luôn đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, bên cạnh mô hình này, có thể dùng thêm một số chỉ tiêu và lý thuyết khác để hỗ trợ cho việc phân tích. Một số chỉ tiêu định lượng đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm 2.1.1 Lợi thế so sánh biểu hiện RCA - RCA được dùng như một chỉ số để đo lường lợi thế so sánh. Hệ số RCA chỉ ra khả năng cạnh tranh xuất khẩu của một quốc gia về một sản phẩm xác định trong mối tương quan với mức xuất khẩu thế giới của sản phẩm đó - Theo Diễn đàn thương mại quốc tế ITC, lợi thế so sánh biểu hiện (RCA) được đo bằng: RCA = ( E XA / EA ) : ( E XW / E w ) Trong đó: EXA : là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của nước A; EA :là tổng kim ngạch xuất khẩu của nước A; E XW : là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của toàn thế giới; Ew: là kim ngạch xuất khẩu của toàn thế giới. Nếu RCA > 2.5 thì sản phẩm có lợi thế so sánh rất cao;RCA nằm trong khoảng 1 đến 2.5 thì sản phẩm có lợi thế so sánh;RCA < 1 thì sản phẩm bất lợi thế so sánh. 2.1.2 Thị phần - Thị phần nói lên độ lớn của thị trường và vai trò, vị trí của quốc gia. Khi dung lượng thị trường đang lên mà phần thị trường của quốc gia không thay đổi tức là thị trường đã nằm ngoài vòng kiểm soát hay một phần của thị trường đã rơi vào đối thủ cạnh tranh cho nên các DN của quốc gia cần phải xem xét lại chiến lược kinh doanh của mình để mở rộng thị trường hiện tại, có giải pháp lôi kéo các đối tượng tiêu dùng tương đối, đối tượng không thường xuyên, lôi kéo khách hàng từ thị trường của đối thủ cạnh tranh với mình. - Công thức tính: Thị phần =( Kim ngạch XK sản phẩm của quốc gia) / ( Tổng kim ngạch XK sản phẩm của toàn thế giới) Một số lý thuyết về năng lực cạnh tranh Lý thuyết H-O ( Heckscher-Ohlin) - Mặt hàng X được coi là có hàm lượng lao động cao nếu : LX / KX > LY / KY Trong đó LX và LY là lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y KX và KY là lượng vốn cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y - Một quốc gia được coi là dồi dào tương đối về lao động nếu tỷ lệ giữa lao động và các yếu tố sản xuất khác của quốc gia đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng của cá quốc gia khác: LA / KA > LB / KB - Một quốc gia sẽ có lợi thế so sánh khi xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào của quốc gia đó. Mô hình "Kim cương" của M. Porter - Theo lý thuyết này, lợi thế cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở sự liên kết của 4 nhóm yếu tố. Mối liên kết của 4 nhóm yếu tố này tạo thành mô hình kim cương. Các nhóm yếu tố đó bao gồm: (1) điều kiện về các yếu tố sản xuất, (2) điều kiện về cầu, (3) các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan, (4) chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành. Các yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau và hình thành nên khả năng cạnh tranh quốc gia. Ngoài ra còn có 2 yếu tố khác là Chính sách của Chính phủ và Cơ hội. Đây là 2 yếu tố có thể tác động đến 4 yếu tố cơ bản kể trên. - Khối kim cương: Hình 2-1: Khối kim cương của M. Porter ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MẶT HÀNG CHÈ XUẤT KHẨU VIỆT NAM Đánh giá theo chỉ số định lượng Đánh giá theo chỉ số RCA Bảng 3-1: Chỉ số RCA mặt hàng chè của một số nước trên thế giới năm 2007 STT  Tên nước  KN XK chè (triệu USD)  Tổng KN XK (triệu USD)  RCA   1.  Kenya  428,3  4054  822,16   2.  SriLanka  359,6  8139  343,84   3.  Ấn Độ  181,9  150800  9,39   4.  Indonesia  143,9  118000  9,49   5.  Việt Nam  130,0  48070  21,05    Thế giới  1800,3  14010000    (Tổng hợp từ nhiều nguồn và tính toán cả nhóm nghiên cứu) Nếu căn cứ vào hệ số lợi thế so sánh biểu hiện RCA thì sản phẩm chè xuất khẩu của Việt Nam có năng lực cạnh tranh tương đối tốt trên thị trường thế giới. Năm 2007, so với các quốc gia xuất khẩu chè chủ yếu thì hệ số RCA của Việt Nam đứng thứ 5 (xem bảng 3-1). Tuy nhiên, đối với Kenya và SriLanka thì hệ số RCA chưa phản ánh chính xác lợi thế so sánh của 2 nước này vì nền kinh tế 2 quốc gia này dựa quá nhiều vào ngành chè nên tỷ trọng xuất khẩu chè trong tổng kim ngạch xuất khẩu (KN XK)lớn là điều dễ hiểu. Đánh giá theo " Thị phần " - "Thị phần" năm 2007 Bảng 3-2: Thị phần của một số nước xuất khẩu chè trên thế giới nửa đầu năm 2008 STT  Nước  Thị phần (%)   1  Sri Lanka  20   2  Kenya  20   3  Trung Quốc  17   4  Ấn Độ  13   5  Việt Nam  7   ( Nguồn : " Jakarta Post" 22/07/2008 ) Nếu căn cứ vào chỉ tiêu thị phần thì chúng ta thấy thị phần xuất khẩu chè của Việt Nam so với tổng KN XK chè toàn thế giới của 6 tháng đầu năm 2008 khoảng 7%, đứng ở vị trí thứ 5; sau SriLanka, Kenya và Ấn Độ. - Thị phần của Việt Nam trong các năm 2005, 2006, 2007 và xu hướng thay đổi của thị phần: Bảng 3-3: Thị phần của chè Việt Nam và SriLanka Năm  KNXK chè của VN ( triệu USD )  Thị phần của VN ( %)  Thị phần của SriLanka ( %)   2005  96.9  5,7%  11.2 %   2006  110,5  6.2%  12.6%   2007  130  6.8%  15.9%   ( Nguồn : Tổng hợp từ FAO, Tổng cục Thống kê Việt Nam và tính toán của nhóm nghiên cứu) Nhìn vào biểu đồ, dễ nhận thấy xu hướng tăng lên của thị phần XK chè Việt Nam trên thị trường thế giới. Điều này chứng tỏ, chè Việt Nam đã giữ được thị phần và từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, nếu so sánh với các quốc gia xuất khẩu chè lón như Sri Lanka thì tốc độ tăng của Việt Nam không lớn bằng. Nguyên nhân của việc này là do thị trường chè thế giới có xu hướng tập trung vào một sô nước xuất khẩu lớn. Do đó, nếu chúng ta không có biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm chè xuất khẩu thì chúng ta sẽ bị tụt hậu. Đánh giá theo các lý thuyết Đánh giá theo lý thuyết H-O Việt Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới và có cơ cấu dân số trẻ với một lực lượng lao động đông đảo. Bên cạnh đó, lượng vốn đầu tư vào Việt Nam không nhiều, máy móc thiết bị còn thiếu thốn. Do vậy có thể nói, Việt Nam có hàm lượng lao động (L/K) rất lớn. Lượng lao động này tập trung phần lớn vào các ngành sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, ngành sản xuất và chế biến chè cũng là ngành cần nhiều lao động. Nên theo lý thuyết H-O, dễ thấy rằng Việt Nam có lợi thế cạnh tranh về chè trên thế giới. Tuy nhiên, lý thuyết H-O không thể giúp ta so sánh chính xác khả năng cạnh tranh của chè Việt nam và các nước xuất khẩu chè lớn khác bởi vì ngày nay, công nghệ đóng một vai trò to lớn trong sản xuất, lực lượng lao động và dân số đông chưa hẳn là yếu tố có lợi tuyệt đối trong cạnh tranh. Đánh giá theo mô hình kim cương Đồ thị 3-5 : Mô hình kim cương đối với xuất khẩu chè Việt Nam Điều kiện các yếu tố đầu vào Giống chè là yếu tố tiên quyết đối với chất lượng sản phẩm chè, quyết định đến 50% chất lượng còn các yếu tố độ cao, chăm sóc chiếm 30% và yếu tố công nghệ chế biến, thiết bị chỉ chiếm 20%. Giống chè - Giống chè có khả năng tạo ra các hoá chất tinh dầu khác nhau, tạo ra chất lượng riêng của từng giống. Bởi vậy, những sản phẩm chè đặc sản có hương vị thơm ngon đặc biẹt đều xuất phát từ những giống chè chứa nhiều tinh dầu, những giống chè có hương thơm riêng biệt. - Năm 2004, ở Việt Nam với diện tích trồng trên 100.000 ha chè thì có 15% diện tích được trồng bằng chè cành, giống mới ( trong đó giống PH1 là 8% còn các giống thơm, chất lượng tốt có 7%). Với cơ cấu giống như vậy thì việc cải tạo chất lượng chè còn rất nhiều khó khăn vì để cho sản phẩm chè có hương thơm thì cơ cấu giống thơm có chất lượng phải chiếm khoảng 30% diện tích chè và đây cũng là tỷ lệ phối trộn tối thiểu trong chè khô sản phẩm để tạo ra được sản phẩm chè có hương vị đặc trưng. - Tuy nhiên, từ năm 2005, nhà nước đã bắt đầu có những quan tâm và đầu tư thích đáng vào việc phát triển giống chè. Nhiều công trình nghiên cứu đã được tiến hành để xác định và phổ cập các giống chè tôtí ưu như :PH1, LDP và TRI 777 và 13 giống năng suất, chất lượng cao. Tính đến năm 2005: 35% diện tích chè trong toàn quốc đã được trồng bằng các giống chè mới chọn lọc. - Giống chè Shan cho đến năm 2004 đang bị mai một, suy giảm chất lượng do không được quan tâm đúng mức đến việc bảo vệ giống. Tuy nhiên, gần đây, giống chè này đang được củng cố và phổ biển trở lại. Cây chè Shan Tuyết được trồng tập trung ở những vùng cao và vùng núi cao các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Lâm Đồng; Vùng cao của tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ, Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh. - Phát triển giống chè ở Việt Nam hiện nay còn phải đối mặt với một số khó khăn như một số địa phương tiếp tục đưa các loại giống hạn chế phát triển vào sản xuất. Hơn nữa, đầu tư cho việc nhập khẩu các giống tốt của nước ngoài và cho nghiên cứu, phát triển còn rất thấp. Độ cao so với mặt nước biển Chè trồng ở vùng cao có hương thơm và vị có hậu tốt hơn chè trồng ở vùng tháp. Thường ở những độ cao trên 1000m so với mặt nước biển thì có biên độ chênh lệch ngày và đêm lớn nên cây chè có hàm lượng tinh dầu lớn hơn ở vùng thấp và tạo cho sản phẩm chè có hương vị đặc trưng của chè vùng núi cao. Ở Việt Nam những vùng trồng chè tập trung như: Mộc Châu, Tam Đường có độ cao từ 500-1000m trên mặt nước biển đã tạo ra được hương vị chè đặc trưng của riêng mình, làm nên lợi thế cạnh tranh cho chè Việt Nam. Đất đai thổ nhưỡng Cây chè yêu cầu đối với đất trồng không nghiêm khắc lắm. Ở Việt nam ngoài vùng chè ngon có độ cao thì còn có vùng chè ngon do điều kiện đất đai thổ nhưỡng. Cùng một giống chè trung du trồng trên đắt Bắc Thái ( đất pha cát sỏi phát triển trên đá vôi) có sản phẩm hương vị chè tốt hơn trồng trên đất Phú Thọ (đất pheralit vàng đỏ phát triển trên granit hoặc phiến thạch sét mica). Chè xanh Bắc Thái có vị rất đặc trưng: chát dịu, dư vị ngọt và được người tiêu dùng rất ưa thích. Ngoài ra ở những nơi đất tơi xốp, nhiều mùn, giầu chất hữu cơ thì cũng cho chất lượng sản phẩm tốt hơn so với những nơi khác. Bón phân - Bón phân cho chè là yếu tố mạnh làm tăng sản lượng và nâng cao phẩm chất hương vị chè. Chè được bón phân hữu cơ có chất lượng tốt nhất so với bón phân vô cơ và không bón. Riêng đối với bón phân vô cơ chỉ số chất lượng giảm xuống theo thứ tự : Phốt Pho, Kali, Đạm và cuối cùng là không bón gì cả. - Thực ra, chúng ta đầu tư bón phân cho chè còn ít và chỉ chú trọng bón phân đạm để lấy năng suất sản lượng là chính, chưa chú trọng yếu tố chất lượng. Hiện nay, theo quy trình bón phân của ta thì lượng phân bón chỉ đạt mưc tối thiểu, nhất là lượng phân hữu cơ, phải 2-3 năm mới bón một lần với liều lượng 2.5 đến 3.5 tấn/ha nên cần phải tăng cường lượng phân hơn nữa mới nâng cao năng suất và chất lượng chè. - Hiện nay, giá phân bón tăng cao sẽ làm ảnh hưởng không tốt đến việc sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm chè Việt Nam. Thuốc trừ sâu - Vấn đề nổi cộm nhất hiện nay của Việt Nam là dư lượng thuốc trừ sâu trong chè nguyên liệu còn rất cao. Từ trước tới nay, ngành chè Việt Nam nói chung và Tổng công ty Chè Việt Nam nói riêng cũng đã không ít lần khuyến cáo các doanh nghiệp thành viên nhưng các biện pháp tổng thể thì hầu như chưa đề cập tới. So với Trung Quốc và Nhật bản, Việt Nam hiện nay là nước duy nhất chưa có biện pháp ngăn chặn tình trạng này. - Sử dụng thuốc trừ sâu rất phổ biến trong người trồng chè để nâng cao năng suất; thêm vào đó, quy trình bón phân sai quy cách khiến cho an toàn vệ sinh thực phẩm giảm mạnh. Đó cũng chính là lí do mà có nhiều đầu mỗi xuất khẩu chè Việt Nam xuất khẩu với giá thấp từ 2-2,5 lần so với giá chè bình quân thế giới. Tháng 5/2007, ngành chè Việt Nam có nhiều khả năng mất thị trường EU sau khi Anh và nhiều nước châu Âu đưa ra thông báo về việc dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong các sản phẩm chè xuất khẩu vượt ngưỡng cho phép nhiều lần. Trong khi đó, theo Bộ Thương mại, hiện các nước nhập khẩu hàng Việt Nam đều đang tích cực áp dụng những rào cản kỹ thuật nhằm bảo vệ người tiêu dùng và sức khoẻ cộng đồng. Vì vậy, đòi hỏi về chất lượng chè xuất khẩu sẽ ngày càng khắt khe. Vào năm 2015, tiêu chuẩn thực phẩm toàn cầu (ISO 2015) sẽ được ban hành. Các nhà xuất khẩu Việt Nam phải đặc biệt lưu tâm đến điều này để tránh nguy cơ mất thị trường xuất khẩu chỉ vì vài doanh nghiệp không chấp hành đúng luật. Các ngành hỗ trợ và có liên quan Công nghiệp chế biến - Công nghiệp chế biến

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận 16437.doc
  • pptSlide.ppt
Luận văn liên quan