Ngành cà phê Việt Nam là một ngành sản xuất có truyền thống lâu đời, trải qua
hơn 100 năm hình thành và phát triển, ngành cà phê đã đạt được những thành tựu to
lớn. Cà phê đã và đang trở thành mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn mang tính chiến lược
trong cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam.
Ngày nay, sản xuất cà phê thế giới đang tập trung chủ yếu ở các nước đang phát
triển nằm ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Việt Nam không những có điều kiện khí
hậu thuận lợi mà còn có cả thổ nhưỡng phù hợp với việc canh tác cà phê. Đây là một
trong những ưu thế lớn để có thể phát triển mạnh hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt
Nam trong thời gian tới.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu và tìm ra giải pháp mới thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu mặt hàng cà phê đối với các doanh nghiệp của Việt Nam có ý nghĩa hết sức
quan trọng, đặc biệt là đối với công ty kinh doanh xuất nhập khẩu có tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu hàng nông sản lớn như Công ty xuất nhập khẩu Dịch vụ Thương mại
INTIMEX. Đây chính là lý do để tôi chọn đề tài này cho đề án môn Thương mại quốc
tế của mình.
Mục đích của đề tài này là nhằm nắm rõ ý nghĩa của mặt hàng cà phê với hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty, qua đó đề xuất một số phương án và
giải pháp phát triển xuất khẩu cà phê cho công ty INTIMEX.
36 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2299 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số phương án và giải pháp phát triển xuất khẩu cà phê cho công ty Intimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Một số phương án và giải pháp phát
triển xuất khẩu cà phê cho công ty
INTIMEX
Lời nói đầu
Ngành cà phê Việt Nam là một ngành sản xuất có truyền thống lâu đời, trải qua
hơn 100 năm hình thành và phát triển, ngành cà phê đã đạt được những thành tựu to
lớn. Cà phê đã và đang trở thành mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn mang tính chiến lược
trong cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam.
Ngày nay, sản xuất cà phê thế giới đang tập trung chủ yếu ở các nước đang phát
triển nằm ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Việt Nam không những có điều kiện khí
hậu thuận lợi mà còn có cả thổ nhưỡng phù hợp với việc canh tác cà phê. Đây là một
trong những ưu thế lớn để có thể phát triển mạnh hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt
Nam trong thời gian tới.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu và tìm ra giải pháp mới thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu mặt hàng cà phê đối với các doanh nghiệp của Việt Nam có ý nghĩa hết sức
quan trọng, đặc biệt là đối với công ty kinh doanh xuất nhập khẩu có tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu hàng nông sản lớn như Công ty xuất nhập khẩu Dịch vụ Thương mại
INTIMEX. Đây chính là lý do để tôi chọn đề tài này cho đề án môn Thương mại quốc
tế của mình.
Mục đích của đề tài này là nhằm nắm rõ ý nghĩa của mặt hàng cà phê với hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty, qua đó đề xuất một số phương án và
giải pháp phát triển xuất khẩu cà phê cho công ty INTIMEX.
Do những hạn chế nhất định về thời gian và phạm vi nghiên cứu, đề án này
không đề cập đến các hoạt động kinh doanh khác.
Với mục tiêu và phạm vi như vậy đề án có kết cấu như sau:
- Chương I : Khái quát chung về mặt hàng cà phê và thị trường xuất khẩu cà
phê của công ty INTIMEX.
- Chương II : Tình hình xuất nhập khẩu mặt hàng cà phê tại công ty
INTIMEX.
- Chương III : Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu cà phê của
công ty INTIMEX trong thời gian tới.
Chương 1
Khái quát chung về mặt hàng cà phê và thị trường xuất khẩu của công ty
intimex.
I - Quá trình hình thành và phát triển của ngành cà phê.
1. Sự ra đời và phát triển ngành cà phê thế giới.
1.1. Sự ra đời.
Cây cà phê lần đầu tiên được những người Etiôpia phát hiện ra cách đây khoảng 1000
năm, sau đó nó nhanh chóng được những người dân trong khu vực sử dụng như một
thứ nước giải khát với tác dụng kích thích mạnh mẽ chưa từng được biết đến. Bởi vậy,
thời đó quả cà phê được những người dân này coi như một báu vật thần kỳ mà trời đã
ban cho họ. Cho tới thế kỷ VI cây cà phê đã lan sang tới Yêmen và vươn tới các nước
khác thuộc khu vực Trung cận Đông, sau đó nó nhanh chóng có mặt ở khắp các nước
Arập. Vì thế, cho tới ngày nay có loại cà phê có tên gọi là cà phê Arabica.
Vào khoảng đầu thế kỷ XVI, các nhà buôn bắt đầu nhập khẩu cà phê vào châu
Âu và thứ nước uống từ quả cà phê trở nên quen thuộc trong giới thượng lưu thời đó.
Cùng thời gian này, cây cà phê cũng được trồng thử ở Nam Mỹ, châu á, châu Đại
dương. Kết quả trồng thử khả quan đã thúc đẩy các nhà buôn và người dân trong các
khu vực này đầu tư vào cây cà phê với mục đích thương mại.
Tới cuối thể kỷ XVII, cây cà phê đã tìm được một vị trí vững chắc trong ngành
trồng trọt thế giới. Nhu cầu tiêu thụ cà phê cùng các sản phẩm từ cây cà phê cũng tăng
dần theo thời gian tạo điều kiện thúc đẩy ngành sản xuất ngày càng phát triển, chính
thức đưa nó bước sang một giai đoạn phát triển mới với quy mô rộng khắp trên tòan
thế giới.
1.2. Quá trình phát triển.
Cũng như hầu hết các loại cây trồng quan trọng khác trên thế giới, cùng với sự tham gia
tăng mạnh mẽ việc khai phá đất hoang, diện tích canh tác cà phê cũng đã tăng mạnh. Vào
năm 1985, diện tích trồng cà phê đã đạt khoảng 9,5 triệu ha. Sau đó tốc độ tăng có chậm lại
nếu xét trên phạm vi toàn thế giới, tuy nhiên, nếu xét theo khu vực thì khu vực châu á vẫn tiếp
tục đạt mức tăng bình quân tới 4,25% năm còn các khu vực khác lại có sự suy giảm hoặc tăng
không đáng kể. Tới năm 1995, diện tích trồng cà phê trên thế giới là 10.493.900 ha, tính bình
quân mỗi năm đã tăng khoảng 0,1%.
Về chủng loại cà phê, kể từ khi được phát hiện ra tới nay tuy chưa có tài liệu nào
thống kê chính thức, song thực tế cho thấy nếu xét về khía cạnh thương mại hiện đang
tồn tại khoảng hơn mười loại cà phê khác nhau trong đó gồm hai loại chủ yếu là cà phê
chè (Arabica) chiếm khoảng 64,5% và cà phê vối (Robusta) chiếm khoảng 34,5%.
Ngoài ra, hiện nay để theo dõi tình hình buôn bán cà phê trên thế giới người ta còn
phân chia cà phê chè (Arabica) ra làm ba loại khác nhau là: cà phê dịu Comombia, các
loại cà phê dịu khác, cà phê Arabica của Braxin và Natural Arabica.
2. Sự ra đời và phát triển ngành cà phê Việt Nam.
Cây cà phê lần đầu tiên được người Pháp đưa vào trồng ở nước ta vào năm 1887
tại hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị. Sau đó chúng được trồng thử nghiệm tại nhiều tu
viện nhằm thăm dò khả năng phát triển cà phê trên diện rộng ở Việt Nam. Cây cà phê
tỏ ra nhanh chóng thích nghi với điều kiện tự nhiên ở một số vùng như: Tây nguyên,
Trung du và miền núi phía Bắc ... cho thấy khả năng phát triển ngành cà phê Việt Nam
sau này.
Tính tới năm 1945 diện tích cà phê cả nước đã đạt mức 10.700 ha trong đó: Bắc
kỳ là 4.100 ha, Trung Kỳ là 5.902 ha và Nam Kỳ là 700 ha với năng suất trung bình
lên cả ba miền đạt khoảng 4 - 5tạ/ha. Lượng cà phê sản xuất ra trong thời kỳ này chủ
yếu được các chủ đồn điền thu mua và xuất khẩu sang Pháp. Chất lượng cà phê trồng ở
Việt Nam lúc đó được đánh giá tương đương với loại cà phê Arabica của Colombia.
Thời kỳ sau năm 1945 đến năm 1954, do điều kiện chiến tranh nên diện tích cũng
như sản lượng cà phê Việt Nam đã bị giảm sút nhiều. Sau đó, trong thời kỳ miền Bắc
xây dựng chủ nghĩa xã hội nhiều nông trường cà phê đã được xây dựng. Tuy nhiên, do
những khó khăn về điều kiện tự nhiên cũng như điều kiện kỹ thuật mà năng suất cũng
như sản lượng cà phê ở miễn Bắc thời kỳ đó còn khá thấp. Diện tích cà phê năm cao
nhất cũng chỉ đạt 14.000 ha (1963) và sản lượng năm cao nhất cũng chỉ là 4.850 tấn
(1968). ở miền Nam, diện tích và sản lượng cà phê cũng có nhiều biến động. Nếu năm
1945 chỉ là 700 ha thì năm 1946 là 3.019 ha, tới năm 1957 con số đó là 3373 ha. Sau
đó chính phủ ngụy quyền cũ cũng đã cho xây dựng nhiều đồn điền cà phê, vì vậy tới
năm 1964 diện tích cà phê ở miền Nam đã đạt 11.120 ha. Tuy nhiên, cũng do chiến
tranh xảy ra ác liệt sau đó mà tới năm 1975 khi miền Nam hoàn toàn giải phóng diện
tích cà phê chỉ còn khoảng 10.000 ha.
Đến năm sau 1975 ngành cà phê Việt Nam mới thực sự bước sang giai đoạn phát
triển với sự gia tăng liên tục về diện tích canh tác cũng như sản lượng. Nếu năm 1976
tổng diện tích cà phê trên cả nước là 18.800 ha với sản lượng khoảng 9.000 tấn thì tới
năm 1980 các con số đó là 22.000 ha và 9.700 tấn, năm 1985 tổng diện tích cà phê đã
đạt 44.700 ha và sản lượng đạt 12.300 tấn. Trong giai đoạn này năng suất bình quân
mới chỉ đạt khoảng 6,5-7 tạ/ha do chúng ta chưa thực sự quan tâm tới kỹ thuật canh tác
cà phê cũng như chưa có điều kiện tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật từ nước ngoài mà
chỉ chú trọng tới việc gia tăng diện tích bằng việc tích cực khai phá đất hoang. Tuy
vậy, chất lượng cà phê Việt Nam vẫn được đánh giá cao trên thị trường Quốc tế với
các bạn hàng chủ yếu là Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Ngòai ra, vào đầu thập kỷ
80 chúng ta cũng đã xuất khẩu được một số lượng cà phê đáng kể sang Singapore và
Hồng Kông. Đó chính là cột mốc đáng ghi nhớ mở ra một thời kỳ mới đối với sự phát
triển của ngành cà phê, hòa nhập cùng sự phát triển của đất nước trong giai đoạn đổi
mới, mở cửa nền kinh tế .
II - Phân bố cây cà phê ở Việt Nam:
1. Phân bố theo vùng.
Hiện nay ở Việt Nam cây cà phê được trồng ở 4 khu vực chủ yếu bao gồm:
Trung du và miền núi phía Bắc, Trung bộ, Tây nguyên và khu vực Đông Nam Bộ.
Trong đó, khu vực Tây nguyên - Đông Nam Bộ đóng vai trò quan trọng nhất. Đây là
khu vực có điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi cho việc trồng và chăm sóc cà phê, vì
vậy hàng năm khu vực này thường chiếm 72 - 94% về diện tích canh tác và từ 82 - 98
% về sản lượng cà phê cả nước. Hơn nữa, khu vực này còn có quỹ đất chưa khai hoang
khá lớn, vì vậy trong tương lai khu vực này vẫn sẽ là trung tâm phát triển của ngành cà
phê Việt Nam .
Bên cạnh khu vực Tây nguyên - Đông Nam Bộ thì khu vực miền Trung thuộc
khu bốn cũ cũng có một vai trò đáng kể trong ngành cà phê. Năm cao nhất (1983) khu
vực này đã chiếm tới 23,37% diện tích và 16,63% sản lượng cà phê toàn ngành. Tuy
nhiên, sau đó diện tích cũng như sản lượng đã liên tục suy giảm vì nhiều nguyên nhân,
trong đó nguyên nhân cơ bản là năng suất trồng cà phê quá thấp không đủ bù đắp chi
phí. Cho tới tận thời gian gần đây, do đã chú trọng tới việc áp dụng kỹ thuật mới để
nâng cao năng suất, ngành cà phê khu vực này mới có dấu hiệu hồi phục. Nếu so với
sản lượng 548 tấn vào năm 1981 thì tới năm 1990 sản lượng cà phê khu vực này đã đạt
737 tấn và tới năm 1994 đạt 1.021 tấn.
Ngoài ba khu vực kể trên thì khu vực Trung du và miền núi phía Bắc cũng đã
từng là một khu vực cho tỷ trọng sản xuất đáng kể trong toàn ngành cà phê. Tuy nhiên,
trong thời gian gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cà phê Việt Nam thì diện
tích cũng như sản lượng cà phê của khu vực này lại tụt giảm nhanh chóng, các nông
trường cà phê được xây dựng trước đây hầu như không còn hoạt động, hoạt động sản
xuất cà phê của tư nhân cũng chỉ còn rất lẻ tẻ, hầu như không cho sản lượng thương
mại đáng kể . Nguyên nhân của hiện tượng này không chỉ do điều kiện tự nhiên không
thuận lợi mà còn do người dân ở đây chưa thấy hết được nguồn lợi do cây cà phê đem
lại, cũng như chưa nắm bắt được kỹ thuật canh tác cà phê để có thể mang lại năng suất
cao đủ bù đắp chi phí và cho lợi nhuận.
Nếu chỉ xét riêng theo các tỉnh thành thì chỉ riêng 4 tỉnh: Đắc Lắc, Lâm Đồng,
Đồng Nai, Gia Lai đã chiếm khoảng 58% tổng diện tích cà phê cả nước trong đó Đắc
Lắc là 87.170 ha, Lâm Đồng: 38.410 ha, Đồng Nai: 17.863 ha và Gia Lai: 18.599 ha
(1975). Về sản lượng, các tỉnh này cũng chiếm từ 60 đến 70% tổng sản lượng cà phê
cả nước. Thậm chí các con số này còn có thể cao hơn nữa trong một vài năm tới.
2. Phân bố theo thành phần kinh tế .
Ngành trồng trọt cà phê ở Việt Nam bao gồm 2 thành phần kinh tế chủ yếu là
thành phần tư nhân và thành phần tập thể. Tỷ trọng sản lượng giữa hai thành phần này
luôn có sự biến động mạnh mẽ qua các thời kỳ. Từ khoảng giữa thập kỷ 80 trở về
trước sản lượng cà phê tập trung chủ yếu vào thành phần kinh tế tập thể với một hệ
thống các nông trường quốc doanh quy mô lớn. Trong bối cảnh chung của nền kinh tế
Việt Nam thời kỳ đó, các nông trường cà phê của Nhà nước có rất nhiều điểm thuận
lợi so với các hộ nông dân canh tác đơn lẻ, vì vậy diện tích, năng suất cũng như sản
lượng cà phê quốc doanh luôn chiếm tỷ lệ áp đảo so với thành phần tư nhân. Ngược
lại, do sự thua thiệt về điều kiện vật chất, kỹ thuật mà thành phần kinh tế tư nhân chưa
thể hiện được vai trò của nó trong việc trồng và sản xuất cà phê.
Bước vào năm 1986, cùng với chính sách mở cửa của Nhà nước, nền kinh tế
chuyển sang cơ chế thị trường, các thành phần kinh tế tư nhân trong nhiều ngành nghề
mới có điều kiện bung ra phát triển, các hộ trồng cà phê cũng nhanh chóng hòa nhập
vào xu hướng đó tạo động lực thay đổi cơ cấu sản lượng theo thành phần kinh tế trong
ngành cà phê Việt Nam. Sự thay đổi này có thể thấy rõ nét qua bảng thống kê sau:
Biểu 1: Tỷ trọng sản lượng cà phê giữa các thành phần kinh tế
Năm
Thành phần
1980 1985 1990 1995
Tư nhân 28% 49% 76% 79%
Tập thể 72% 51% 24% 21%
(Nguồn: Niên giám thống kê 80 - 95)
Tỷ lệ 21 - 79 này vẫn đang tiếp tục thay đổi theo hướng giảm dần vai trò của
thành phần kinh tế tập thể. Sở dĩ có hiện tượng này một phần còn là do trong những
năm gần đây ngành cà phê có chủ trương nhượng lại quyền canh tác cà phê từ các
nông trường cho các hộ nông dân vốn trong cơ chế cũ vẫn nhận khoán canh tác cà phê
của các nông trường quốc doanh. Như vậy, có thể thấy rằng trong tương lai không xa
thành phần kinh tế tư nhân sẽ chiếm vai trò chủ đạo trong ngành cà phê Việt Nam. Tuy
nhiên, chúng ta vẫn không thể phủ nhận vai trò của các doanh nghiệp quốc doanh, bởi
chỉ các doanh nghiệp Nhà nước mới có đủ vốn và nhân lực phục vụ cho công cuộc
hiện đại hóa ngành cà phê, đưa nó phát triển mạnh hơn nữa trong giai đoạn tới.
III - Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam và Thế giới:
1. Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê ở Việt Nam.
1.1. Tình hình sản xuất .
Trải qua hơn 100 năm hình thành và phát triển ngày nay cà phê đã thực sự được
chỗ đứng trong nền kinh tế Việt Nam. Ngành cà phê có những bước phát triển không
ngừng cả về diện tích cũng như sản lượng. Sở dĩ có được thành quả đó là bởi nhiều
nguyên nhân, trước hết đó là nguồn lợi có được từ việc trồng cà phê. Cây cà phê là loại
cây công nghiệp đặc sản của vùng nhiệt đới mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều
nếu đem so với việc trồng các loại cây nông sản khác. Theo tính toán, việc trồng 1 ha
cà phê thường mang lại giá trị kinh tế cao gấp 1,5 lần so với trồng 1 ha lúa và gấp từ 5
đến 10 lần so với việc trồng một số loại cây công nghiệp khác. Hơn nữa cùng với sự
đổi mới nền kinh tế đất nước, chúng ta có nhiều cơ hội giao lưu buôn bán với thế giới
bên ngoài hơn, hàng hóa của Việt Nam mà cụ thể là mặt hàng cà phê có điều kiện
thâm nhập vào thị trường thế giới. Điều đó chính là động lực thúc đẩy ngành cà phê
phát triển. Ngoài ra còn có một nguyên nhân hết sức quan trọng khác đó là sự nhạy cảm
của những người trực tiếp tham gia sản xuất và xuất khẩu cà phê. Nhờ nắm bắt được nhu
cầu thị trường thế giới cùng việc đẩy mạnh áp dụng kỹ thuật canh tác, chú trọng đầu tư
thâm canh, tăng cường khai hoang nâng cao diện tích trồng cà phê mà năng suất cũng như
sản lượng cà phê của Việt Nam đã tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Liên tục
nhiều năm năng suất tăng rõ rệt từ 600-700 kg nhân/ ha nay đạt bình quân 1,4 tấn nhân/
ha, cá biệt có nơi 4- 4,5 tấn nhân/ ha. World Bank đánh giá năm 1996 năng suất cà phê
vối (Robusta) của Việt Nam (1,48 tấn/ ha) xếp nhì thế giới, sau Costa Rica (1,6 tấn/ ha),
trên Thái Lan (0,99 tấn/ ha). Cùng với năng suất, diện tích và sản lượng cà phê của Việt
Nam cũng đang ở mức rất cao, có xu hướng tiếp tục tăng.
Biểu 2: Sản xuất cà phê Việt Nam giai đoạn 1991 - 2000
Năm
Chỉ tiêu
1991 1992 1993 1994 1995 1996 199
7
1998 1999 200
0
Diện tích
(1000 ha)
135,5 135,5 143 148,8 164,6 186 254 296 350 420
DT tăng so
với niên vụ
trước(1000
ha)
0 7,5 5,8 15,8 37,2 68 42 54 70
SL cà phê
( 1000 tấn)
82,5 131,4 145,2 179 212,5 235 362 400 420 600
SLtăng so
với niên vụ
trước(1000
48,9 13,8 33,8 33,5 22,5 127 38 20 180
tấn)
Năng suất
(tấn/ha)
0,61 0,97 1,02 1,20 1,29 1,26 1,43 1,35 1,20 1,43
NS tăng so
với niên vụ
trước
(tấn/ha)
0,36 0,05 0,18 0,09 -0,03 0,17 -0,08 -0,15 0,23
(Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 1991 - 2000)
Qua bảng số liệu trên chúng ta nhận thấy rằng diện tích cà phê VN tăng rất mạnh
và còn tiếp tục tăng. Đây chính là kết quả từ chính sách khuyến khích phát triển cà phê
của chính phủ trong kinh tế hộ gia đình, tư nhân kết hợp với đầu tư hỗ trợ của Nhà
nước qua các chương trình định canh, định cư, phủ xanh đất trống đồi trọc. Bên cạnh
mặt đáng mừng, diện tích tăng mạnh cũng phản ánh một tình trạng đáng ngại đó là sự
phát triển vượt tầm kiểm soát của cà phê trồng mới.Đây là một trở ngại trong công tác
chỉ đạo kinh doanh xuất khẩu.
Như vậy nếu như trong cả thời kỳ 100 năm phát triển tới năm 1985 ngành cà phê
Việt Nam mới đạt sản lượng khoảng 12 ngàn tấn thì trong các năm của thập kỷ 90 mỗi
năm sản lượng cà phê của Việt Nam đều tăng hàng chục ngàn tấn, thậm chí từ năm 96
tới năm 97 sản lượng đã tăng 127 nghìn tấn.
Tuy nhiên đó mới chỉ là những con số thể hiện bề nổi của ngành cà phê Việt
Nam. Thực tế cho thấy mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trong việc
nâng cao diện tích, năng suất, cũng như sản lượng nhưng chúng ta còn rất nhiều khó
khăn trong các công đoạn sản xuất cà phê sau thu hoạch. Các hộ nông dân hầu như chỉ
sản xuất theo hướng tự phát, ít có chiến lược phát triển lâu dài, vì vậy các vấn đề về
công nghệ, kỹ thuật sau thu hoạch hầu như bị bỏ trống, điều đó đã lý giải lý do tại sao
trong thời gian gần đây cà phê Việt Nam không còn được đánh giá cao về chất lượng
như trước kia. Theo thống kê vào đầu niên vụ 94/95 các nông trường và các hội nông
dân chỉ mới đáp ứng được khoảng 30% tổng sản lượng cà phê thu hoạch được phơi và
sấy khô theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật. Nghĩa là 70% còn lại không đáp ứng được các
yêu cầu kỹ thuật và sự sút giảm về chất lượng sẽ là một tất yếu. Đến năm 1997 tỉ lệ
này nhích lên 45% tương đương 170.000 tấn trong tổng số 360.000 tấn cà phê của cả
nước. Nhờ sự quan tâm và hướng dẫn của ngành cà phê đối với các hộ sản xuất đơn lẻ
mà tới đầu năm 99 toàn ngành cà phê đã được đầu tư máy móc thiết bị đảm bảo cho
khoảng 70% sản lượng cà phê sản xuất ra đạt chất lượng cao đáp ứng đòi hỏi của thị
trường quốc tế. Bên cạnh đó trong một vài năm gần đây chúng ta đã cố gắng chuyển
hướng sang sản xuất cà phê hòa tan nhằm đưa sản phẩm tiêu dùng cuối cùng tới người
tiêu dùng trong nước và người tiêu dùng quốc tế. Kết quả, trong năm 98 chúng ta đã
sản xuất được khoảng 2100 tấn và xuất khẩu gần 1000 tấn, hứa hẹn những bước phát
triển mới trong tương lai.
1.2. Tình hình xuất khẩu.
Cùng với những thành tựu to lớn mà nền kinh tế Việt Nam đã đạt được trong thời
gian qua, lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam cũng đã có những bước phát triển vô cùng
quan trọng. Đóng góp vào sự phát triển đó ngành cà phê đã thực hiện sự khẳng định
được vai trò của mình. Sự tăng trưởng xuất khẩu cà phê của Việt Nam không những
được nhìn nhận trong nội tại nền kinh tế đất nước mà còn được các tổ chức quốc tế
như ICO, ESCAP, ... công nhận.
a. Kim ngạch, khối lượng, giá cả.
Do sản xuất cà phê trong nước phát triển liên tục trong nhiều năm qua mà khối
lượng cà phê xuất khẩu cũng có sự gia tăng mạnh mẽ. Từ chỗ mỗi năm Việt Nam chỉ
xuất khẩu được 5 đến 7 nghìn tấn cà phê với kim ngạch chưa khi nào vượi quá 10 triệu
USD Mỹ thì tới nay đã là một trong năm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước. Từ
năm 1994 kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã vượt qua con số 400 triệu
USD, đưa Việt Nam trở thành một trong 3 nước xuất khẩu nhiều cà phê nhất khu vực
châu á - Thái Bình Dương là : ấn Độ, Indonesia và Việt Nam .
Biểu 3: Kim ngạch, khối lượng, giá xuất khẩu mặt hàng cà phê
của Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 1998.
Năm
Chỉ tiêu
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Khối 89,6 93,5 116,2 106 170 210 233 360 390,4
lượng
(1000 tấn)
Giá cả
(USD
/tấn)
850 830 720 900 2.647 2.633 1.814 1.210 1.526
Kim
ngạch
(triệu
USD )
76,16 77,61 83,66 95,40 450,0 500,0 422,0 416,6 592,2
(Nguồn: Tổng hợp từ thời báo kinh tế )
Qua bảng trên chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy kim ngạch và khối lượng cà phê
xuất khẩu trong thời kỳ 90 - 97 được chia thành hai giai đoạn: 90 - 93 và 94 - 97.
Trong giai đoạn đầu khối lượng xuất khẩu dao động ở mức trên dưới 100 ngàn tấn còn
kim ngạch trung bình khoảng 80 triệu USD. Suốt những năm nay tuy có sự tăng
trưởng trong xuất khẩu song sự tăng trưởng này là tương đối ổn định và không xảy ra
đột biến nào. Tuy nhiên bước sang năm 1994 xuất khẩu cà phê của Việt Nam thực sự
đã có bước nhảy vọt về cả khối lượng cũng như kim ngạch, đặc biệt kim ngạch xuất
khẩu cà phê đã tăng gần 500% từ 95,4 triệu USD lên 450,0 triệu USD. Trong khi đó,
lượng cà phê xuất khẩu chỉ tăng khoảng 150% từ 106 ngàn tấn lên 170 ngàn tấn, điều
đó được giải thích qua sự biến động của giá cà phê. Những năm sau đó tuy khối lượng
xuất khẩu đã tăng liên tục lên 210 ngàn tấn năm 95, 233 ngàn tấn năm 96 và 3