Việt Nam là một quốc gia ra đời và tồn tại với lịch sử mấy nghìn năm. Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển của mình, cộng đồng cư dân sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam đã phát minh ra nhiều giá trị vật chất và tinh thần mà giá trị của nói vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Với một quốc gia luôn phải chống chịu hàng trăm cuộc xâm chiếm của các thế lực bên ngoài thì một yêu cầu đặt ra để bảo đảm sự tồn tại của đất nước đó là phải có biện pháp hữu hiệu để chống lại các thế lực ngoại bang. Một trong những công trình nhằm chống lại sự xâm lấn của ngoại bang là Thành – một công trình có nhiều ý nghĩa cho sự tồn tại của một quốc gia, dân tộc.
Để tìm hiểu rõ hơn về Thành lũy trong lịch sử của nước ta, ở bài tiểu luận này sẽ chọn 3 thành tiêu biểu nhất trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc đó là thành Cổ Loa, thành Hoa Lư và thành Thăng Long – 3 thành tiêu biểu trong hệ thống thành lũy Việt Nam. Với mục đích đó, đề tài bài tiểu luận nay là: “Một số thành lũy tiêu biểu ở Việt Nam trong tiến trình lịch sử Việt Nam” được chọn để nghiên cứu.
Với thời gian ít ỏi, khả năng người thực hiện còn hạn chế nên đề tài chắc chắn sẽ không thể tránh những hạn chế nhất định, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp.
21 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2414 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số thành lũy tiêu biểu ở Việt Nam trong tiến trình lịch sử Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia ra đời và tồn tại với lịch sử mấy nghìn năm. Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển của mình, cộng đồng cư dân sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam đã phát minh ra nhiều giá trị vật chất và tinh thần mà giá trị của nói vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Với một quốc gia luôn phải chống chịu hàng trăm cuộc xâm chiếm của các thế lực bên ngoài thì một yêu cầu đặt ra để bảo đảm sự tồn tại của đất nước đó là phải có biện pháp hữu hiệu để chống lại các thế lực ngoại bang. Một trong những công trình nhằm chống lại sự xâm lấn của ngoại bang là Thành – một công trình có nhiều ý nghĩa cho sự tồn tại của một quốc gia, dân tộc.
Để tìm hiểu rõ hơn về Thành lũy trong lịch sử của nước ta, ở bài tiểu luận này sẽ chọn 3 thành tiêu biểu nhất trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc đó là thành Cổ Loa, thành Hoa Lư và thành Thăng Long – 3 thành tiêu biểu trong hệ thống thành lũy Việt Nam. Với mục đích đó, đề tài bài tiểu luận nay là: “Một số thành lũy tiêu biểu ở Việt Nam trong tiến trình lịch sử Việt Nam” được chọn để nghiên cứu.
Với thời gian ít ỏi, khả năng người thực hiện còn hạn chế nên đề tài chắc chắn sẽ không thể tránh những hạn chế nhất định, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp.
CHƯƠNG MỘT
VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ THÀNH LUỸ VIỆT NAM
1.1. Các khái niệm, thuật ngữ liên quan đến thành
Thành luỹ: là công trình xây dựng kiên cố, vững chắc để bảo vệ, thành xây có nhiều lớp bao bọc để bảo vệ phòng thủ một vị trí quan trọng của một tổ chức hay một hệ thống xã hội.
Thành quách: là công trình xây dựng kiên cố bằng những vật liệu kiên cố như gạch, đá, vững chắc để bảo vệ, thành xây có nhiều lớp bao bọc để bảo vệ phòng thủ một vị trí quan trọng của một tổ chức hay một hệ thống xã hội.
Chòi canh – vọng gác: là công trinh được xây dựng ở những vị trí thoáng đảng tầm quan sát lớn để quan sát, canh gác, chiến đấu.
Tháp canh: là công trinh được xây dựng ở những vị trí cao tầm quan sát lớn để quan sát, canh gác cho thành.
Hào: là hệ thống công sự được đào để bảo vệ công trình phòng thủ và hổ trợ tác chiến khi có chiến tranh.
1.2. Lịch sử hình thành thành lũy ở Việt Nam
Thành lũy ra đời ở nước ta tương đối sớm từ thời các vua Hùng, các công trình phòng thủ mang tính chất công sự chiến đấu đã được hình thành dưới những hình thức sơ khai nhất. Trong giai đoạn đầu của xã hội Việt Nam do sự thiếu ổn định về mặt kinh tế, chính trị nên trong xã hội luôn có các cuộc đấu tranh giữ các bộ lạc với nhau, sự tranh chấp địa bàn cư trú này dần dần trở thành những xung đột quân sự lớn. Các bộ lạc nhỏ yếu thông thường phải dựa vào những công sự sơ khai được dựng lên như những chướng ngại vật để chặn bước tiến của thù để bảo vệ sự tồn tại của bộ lạc và cộng đồng của mình. Sự đe dọa lớn hơn bắt đầu đến từ bên ngoài với sự xâm lược của các đạo quân phương Bắc. Dần dần chính những tác dụng có lợi của các dạng công sự sơ khai này khiến người ta lưu tâm hơn và bắt đầu cho xây dựng những công trình kiên cố hơn, để phục vụ công tác quốc phòng của bộ lạc và đất nước. Các công trình thành lũy dần được ra đời trên cơ sở hoàn thiện kinh nghiệm từ nhiều thế hệ và có sự giao lưu với các quốc gia lân bang.
Ngoài những thành sơ khai được xây dựng đơn giản đến nay khảo cổ học đã phát hiện trong giai đoạn này nhiều thành còn dấu vết đến ngày nay: Thành cổ Mê Linh - nơi Hai Bà Trưng đóng đô, Thành Cổ Loa Đông Anh – Hà Nôi, Thành cổ Phong Châu, theo An Nam chí chép : Ở phía tây bắc phủ Giao Chỉ, tức đất Mê Linh thuộc quận Giao Chỉ đời Hán. Luỹ cổ của Trưng Vương: ở xã Cư An. Nay là thôn Cư An xã Tam Đồng huyện Mê Linh. Thành Luy Lâu, thành Hoa Lư – Ninh Bình…đó là những thành lũy đầu tiên mang nặng kiến trúc và tư duy quân sự của người Việt.
1.3. Vài nét về tiêu chí chọn địa điểm xây dựng thành lũy Việt Nam
Do đặc điểm dân cư nước ta giai đoạn đâu thưa thớt và phải thường xuyên chống đỡ những cuộc “Chinh man” của chủ nghĩa bành trướng Phương Bắc. Vì vậy từ lâu cha ông ta đã ý thức sâu sắc phương châm chiến tranh du kích và quan điểm chiến lược lấy ít địch nhiều kết hợp khéo léo yếu tố cốt lõi của binh gia “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Tuy nhiên để đương đầu với những đạo quân “Chinh man” với số lượng áp đảo về mọi mặt thì việc tạo ra cho mình những cứ địa phòng thủ là điều không thể xem nhẹ.
Trên cơ sở đó, cha ông ta đã biết dựa vào những đạo binh lực vô hình từ địa thế tự nhiên của hình sông dáng núi, của cái mà binh pháp thường gọi là “Nơi dễ phòng thủ, khó tấn công”. Tiêu chí đó một khi được kết hợp và hòa quyện với chủ nghĩa anh hùng dân tộc được ăn sâu trong tiềm thức của người lính Việt thì nó thành cảnh giới tối cao của thuật dùng binh. Một người địch muôn kẻ để chế ngự và áp đảo quân thù. Đó là trí tuệ của nghệ thuật quân sự sơ khai mà tinh túy là cái giản đơn mà thiết thực trong quân sự của cha ông ta. Diễn giải quan niệm này ta thấy được cái lợi nhiều mặt ngoài những gì đã nêu ở trên, cách lựa chọn này cũng là sự chọn lựa tối ưu về sự tiết kiệm và biết quý trọng sức dân của những vị minh quân thiên tử của nước Nam. Rõ ràng với số dân ít ỏi kinh tế nghèo yếu lại kinh niên sống trong đao binh của những cuộc rữa hận mà các thế lực chinh phạt phương Bắc reo rắc mà cho xây đắp những thành lũy nguy nga tráng lệ là điều không tưởng. Phỏng điều đó trở thành hiện thực thì vắt kiệt sức dân khi kẻ thù tới đánh họ cũng chẳng còn hơi sức đâu mà chống cự. Bất quá còn tạo ra sự chia rẽ mất lòng dân một điều tử địa trong binh gia.
Vì vậy yếu tố kết hợp điều kiện tự nhiên thuận lợi cho xây dựng công sự phòng thủ là tiêu chí tất yếu để cất thành, đắp lũy.
Một tiêu chí khác cũng không kém phần quan trọng ngoài yếu tố địa hình để các chiến lược gia xưa lựa chọn đó là yếu tố “Nhân hòa” xây dựng công sự thành lũy phải ở khu vực gần dân, phải có dân. Từ xưa, cha ông ta đã biết mối quan hệ khăng khít quân với dân như cá với nước nên xây dựng quân sự không thể nơi không có dân cư. Dân là tai, mắt là nguồn nuôi sống quân đội và là cội nguồn sức mạnh Việt Nam. Xây dựng thành phải ở nơi có sự bổ sung thường xuyên về lương thực và quân số. Tức là sự kết hợp lôgic hai yếu tố quân đội và hậu cần tại chổ. Tạo nên sự vững mạnh cho quân đội từ bên trong. Yếu tô sống còn cho sức mạnh quân sự của bất kỳ đạo quân nào. Huống hồ, nghệ thuật quân sự của cha ông ta là chiên tranh nhân dân của toàn dân đánh giặc.
Nếu chỉ nhìn vấn đề từ hai yếu tố trên thì chưa đủ, để chọn khảnh đất này làm nơi xây thành đắp lũy mảnh đất kia cất đặt bố phòng. Nó còn phải đảm bảo tiêu chí “tính thiêng” của thắng địa, là nơi có nguyên liệu dồi dào, giao thông thuận lợi.
Để đạt tới sức mạnh tối đa con người ta thường hay gữi gắm niềm tin của mình vào một thế lực siêu nhiên nào đó. Trong quân sự điều này cũng không ngoại lệ. Thành Cổ Loa người ta thêu dệt nên “tính thiêng” này bằng việc giúp sức của thần Kim Quy và chiếc móng Rùa Thần, các thành lũy khác cũng có thế lực thần linh bảo trợ để nó trở thành thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm.
Các yếu tố nguyên liệu dồi dào để thuận lợi cho xây dựng và giữ thành. Giao thông thuận lợi là để tác chiến thuật tiện đặc biệt với quân đội ta tư thế thủy quân và bộ binh thì yếu tố này càng trở nên quan trọng. Vận chuyển dễ dàng chi viện thuận lợi khi có chiến tranh và thuận lợi thông thương khi ở thời bình cũng là tiêu chí lựa chọn mỗi khi quyết định địa thế xây dựng thành lũy.
Tóm lại, tiêu chí chọn đất xây dựng thành lũy Việt Nam có thể gói gọn trong bốn chữ đó là: “Địa lợi, nhân hòa”.
CHƯƠNG HAI
MỘT SỐ THÀNH TIÊU BIỂU DO KHẢO CỔ HỌC PHÁT HIỆN
2.1. Thành Cổ Loa
Cổ Loa là kinh đô của nhà nước phong kiến Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà nước dưới thời Ngô Quyền thế kỷ 10 sau Công nguyên.
Hiện nay, di tích Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội.
2.1.1. Vị trí địa lý và những tiêu chí chọn vị trí
Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa. Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Sông Hoàng (tức sông Thiếp) là một con sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu trong hệ thống sông Thái Bình.Về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình.
Qua con sông Hoàng, thuyền bè ngược lên sông Hồng là vào vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền ra đến biển cả, nếu đến vùng phía Đông Bắc bộ thì qua sông Cầu vào hệ thống sông Thái Bình đến sông Thương và sông Lục Nam.
Địa điểm Cổ Loa chính là đất Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân cư đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng.
2.1.2. Vật liệu và kỷ thuật xây dựng
Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km... Diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5 m, có chỗ 8-12 m. Chân lũy rộng 20-30 m, mặt lũy rộng 6-12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. Khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất yếu nên việc xây dựng thành Cổ Loa có thể khó khăn và thành bị đổ nhiều lần là dễ hiểu. Khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học phát hiện kỹ thuật gia cố thành của Thục Phán: chân thành được chẹn một lớp tảng đá. Hòn nhỏ có đường kính 15 cm, hòn lớn 60 cm. Xung quanh Cổ Loa, một mạng lưới thủy văn dày đặc đã được tạo ra, thành một vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ thủy binh hùng mạnh
2.1.3. Cấu trúc thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ"
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng. Chiếc Đầm Cả rộng lớn nằm ở phía Đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng làm nơi tụ họp cho đến cả hàng trăm thuyền bè.
Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền khác. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở. Các cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy một số lượng gốm khổng lồ gồm ngói ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói. Ngói có nhiều loại với độ nung khác nhau. Có cái được nung ở nhiệt độ thấp, có cái được nung rất cao gần như sành. Ngói được trang trí nhiều loại hoa văn ở một mặt hay hai mặt.
Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng căn cứ trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa học nhận thấy thành có 3 vòng, trong đó vòng thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km, diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4 m-5 m, có chỗ cao đến 8 m-12 m. Chân lũy rộng 20 m-30 m, mặt lũy rộng 6 m-12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối.
Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5 m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6 m-12 m, chân rộng từ 20 m-30 m, chu vi 1.650 m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.
Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500 m, nơi cao nhất là 10 m, mặt thành rộng trung bình 10 m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hoàng.
Thành ngoài cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000 m, cao trung bình 3 m-4 m (có chỗ tới hơn 8 m).
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung, là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ.
Sông Hoàng được dùng làm hào thiên nhiên cho thành Ngoại ở về phía Tây Nam và Nam. Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành từ gò Cột Cờ đến Đầm Cả. Con hào này nối với hào của thành Trung ở Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch có hình dáng như bàn tay xòe, và với một nhánh của con lạch này, nước chảy thông vào vòng hào của thành Nội.
Thuyền bè đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc ra sông Hoàng và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi. Theo truyền thuyết, An Dương Vương thường dùng thuyền đi khắp các hào rồi ra sông Hoàng
2.1.4. Chức năng.
Trong cấu trúc chung của thành Cổ Loa còn có một yếu tố khác làm phong phú thêm tổng thể kiến trúc này. Đó là những gò đất dài hoặc tròn được đắp rải rác giữa các vòng thành hoặc nằm ngoài thành Ngoại, được dân chúng gọi là Đống Dân, Đống Chuông, Đống Bắn. Các ụ, lũy này được dùng làm công sự, có nhiệm vụ của những pháo đài tiền vệ, phối hợp với thành, hào trong việc bảo vệ và chiến đấu
Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh, khi tác chiến.
Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, xã hội đã có giai cấp rõ ràng hơn thời Vua Hùng.
2. 2. Thành Hoa Lư
Thành Hoa Lư là kinh đô của nước Đại Ccof Việt dười hai triều đại Đinh và Tiền lê. Sử cũ có ghi chép về việc xây dựng, hưng, phế của tòa thành này. Song, những ghi chép đó đề sơ sài và ít ỏi.
Đại Việt sử lược, bộ sử xưa nhất còn lại đến nay, ghi vắn tắt như sau: “Năm đầu hiệu Khai Bảo đời Triệu Tống (968), Đinh Bộ Lĩnh xưng làm hoàng đế ở đọng Hoa Lư, xây cung điện”.
Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên chép tường tận hơn: “ khi ấy 12 sứ quân đều tự làm hùng trưởng, cắt giữ đất đai… Vua (Đinh Bộ Lĩnh) đánh dẹp được tất cả, mới tự xưng đế, chọn được chổ đất bằng phẳng ở Đàm Thôn, muốn dựng làm kinh đô, nhưng vì thế đất chật hẹp , lại không có lợi về sự đặt hiểm, nên lại đóng đô ở Hoa Lư”.
Sử chép rằng: "Mậu Thìn năm thứ 1 (Tống, Khai Bảo năm thứ nhất), Vua (Đinh Bộ Lĩnh) lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời kinh về động Hoa Lư, xây dựng đô mới, đắp thành đào hào, làm cung điện, đặt triều nghi". Đây là chép về vua Đinh Tiên Hoàng sau khi dẹp xong các sứ quân, thống nhất đất nước, lên ngôi vua và xây dựng kinh đô.
Sử lại chép "Giáp thân năm thứ 5 (984)... Dựng nhiều cung điện, làm điện Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Đại Vân, có cột điện dát vàng bạc, làm nơi coi chầu; bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Từ Hoa, bên tả là điện Bồng Lai, bên hữu là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, rồi lại dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc lợp bằng ngói bạc". Đây là chép về vua Lê Đại Hành, sau khi lên ngôi đã tiếp tục xây dựng kinh đô Hoa Lư thành một thủ đô tráng lệ.
Sử chép tiếp: "Canh tuất, Thuận Thiên năm thứ 1 (1010)... Mùa thu tháng 7, Vua dời kinh đô từ thành Hoa Lư sang kinh đô lớn là Đại La của kinh phủ. Thuyền tạm đỗ ở dưới thành, có rồng vàng hiện ra ở thuyền ngự, vì thế đổi là thành Thăng Long. Đồi châu Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức, thành Hoa Lư làm phủ Trường Yên...".
Theo sử sách thì Hoa Lư đã đóng vai trò thủ đô 42 năm. Trong 42 năm đó, trải ba triều: Đinh - Lê - Lý, Hoa Lư đã được tu bổ xây dựng khá nhiều. Ít nhất nơi đây đã là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế và quân sự của hai triều Đinh và Tiền Lê.
2.2.1. Vị trí địa lý
Thành Hoa Lư thuộc đất xã Trường Yên, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình cũ (hay là Hà Nam Ninh); cách Hà Nội khoảng 10 km về phía tây bắc.
Hệ thống núi đá vôi của huyện Gia Khánh phát triển thành những dải núi hiểm trở bao bọc xung quanh một vùng đất bằng, rộng lớn, ngay bên bờ phía đông nam sông Hoàng Long. Vùng đất này đã được chọn làm khu vực kinh thành Hoa Lư.
Thế đất Hoa Lư tuyệt đẹp. Núi cao bao quanh gần như kín ba mặt tây, nam và đông, tạo nên những bức tường cao vô cùng kiên cố. Phía bắc và phía đông bắc ít núi, lại có con sông Hoàng Long án ngữ như một hào ngoài. Sông Hoàng Long là con sông lớn bắt nguồn từ vùng rừng núi Hòa Bình, Nho Quan chảy ra sông Đáy, lại là con đường giao thông thuận tiện từ kinh thành ra bắc vào nam. Từ Hoa Lư còn có nhiều con đường len lỏi trong vùng, qua những ngách núi cheo leo để đi sâu vào vùng núi hoặc vào phía nam.
Chọn Hoa Lư làm kinh thành, người xưa chỉ cần xây nối một số đoạn ngắn các khoảng trống giữa hai quả núi là có một công sự khép kín vô cùng kiên cố mà không phải tốn nhiều công sức.
Tiếp sau Cổ Loa, Hoa Lư là một tòa nhà điển hình cho phương pháp xây dựng lợi dụng địa thế tự nhiên. Cũng bởi lẽ đó mà thành Hoa Lư có dáng hình độc đáo, có đầy đủ tính chất kiên cố, hiểm trở của một công trình quân sự, lại thêm tính kỳ vĩ, hữu tình của một thắng cảnh.
2.2.2. Vật liệu
Vì các đoạn thành nằm trong vùng ngập nước nên những người xây thành phải xử lý móng để chống sạt lở. Móng được làm đơn giản cứ một lớp cành lá cây dày lại đến một lớp đất. Còn có những cột đóng sâu xuống giữu cho móng không trôi. Cọc có cọc đươn và cọc kép; cọc kếp gồm hai cọc nối nhau bằng đà ngang có lỗ mộng. Trên đà ngang xếp nhiều cây gỗ dài. Đây là các xử lý truyền thống trong việc chống lún ở những vùng lầy lội. Cách này rõ ràng có hiệu quả tốt, tường thành xây đắp bên trên đã tồn tại vững vàng đến ngày nay.
Mặt trên thân tường thành là một lõi gạch xây cao như bức tường, lõi gạch dày 0,45 m, cao 1,75m. Dưới chân tường thành gạch có kê bằng đá tảng và những cọc gỗ lớn. Đây là hoạt động xây đắp gia cố thêm cho những đoạn thành nhân tạo kém hiểm trở so với những dãy núi đá thiên nhiên.
Đất đắp thành là loại đất sét thuần nhất, khá mịn, có màu xám, có vân nâu hoặc vàng được đầm khá chắc. Gạch xây tường thành là viên gạch chữ nhật, có kích thước 30*16*4 cm. Trên gạch được in chữ “Đại Việt quốc quân thành chuyên” và “Giang Tây chuyên”.
2.2.3. Kiến Trúc
Kinh đô Hoa Lư được bao bọc bởi nhiều ngọn núi, các triều vua đã dựa theo địa hình tự nhiên cho đắp 10 đoạn tường thành nối các núi đá, dựng nên thành Hoa Lư thuộc xã Trường Yên với diện tích hơn 300 ha. Phía Nam thành Hoa Lư là thành Tràng An (còn được gọi là thành Nam) là khu vực phòng thủ hậu cứ của kinh đô. Thành Hoa Lư có rất nhiều cổng bộ để đi vào, bên cạnh đó còn có cổng thủy do sông Sào Khê chảy xuyên qua thành. Thành Hoa Lư có hai vòng sát nhau: thành ngoài và thành trong.
Thành ngoài rộng khoảng 140 ha, nằm ở phía đông thành trong, có 5 đoạn tường thành nối các dãy núi tạo nên vòng thành khép kín.
Đoạn 1 nối núi Đầm với núi Thanh Lâu, được gọi là "tường Đông", dài 320m;
Đoạn 2 từ núi Thanh Lâu đến núi Cột Cờ, dài 230m;
Đoạn 3 từ núi Cột Cờ sang núi Chẽ, dài 300m;
Đoạn 4 từ núi Chẽ đến núi Chợ, dài 300m