Xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế đã mở ra cho nhân loại cánh cửa giao lưu đầy triển vọng, các nước đang xích lại gần nhau thông qua chiếc cầu nối thương mại quốc tế. Vượt qua không gian và thời gian, những luồng chu chuyển hàng hóa, dịch vụ và tiền tệ đã tạo ra sự gắn kết bền vững giữa cung và cầu ở những nước có trình độ kinh tế khác nhau và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng kéo theo sự phức tạp ngày càng lớn trong mắt xích cuối cùng của quá trình trao đổi, thanh toán quốc tế. Điều đó đặt ra cho các ngân hàng thương mại phải phát triển các dịch vụ kinh tế đối ngoại một cách tương ứng, trong đó không thể không kể đến hoạt động thanh toán quốc tế với nhiều phương thức thanh toán đa dạng và phong phú. Trong các phương thức thanh toán này, tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến nhất do những ưu việt của nó. Song tín dụng chứng từ không phải là nghiệp vụ đơn giản, trong thực tế công tác này đã gặp phải không ít những rủi ro gây thiệt hại cả về tài chính lẫn uy tín cho các ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp cần hiểu rõ đối tác về năng lực tài chính, tiểu sử về hoạt động sản xuất kinh doanh, lĩnh vực xuất nhập khẩu; khi ký hợp đồng phải chặt chẽ và tuân thủ các quy định của tiêu chuẩn quốc tế, các nguồn luật cần tuân thủ để khi có xảy ra tranh chấp sẽ dễ giải quyết.
26 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4416 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số vấn đề cần lưu ý của UCP 600, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế đã mở ra cho nhân loại cánh cửa giao lưu đầy triển vọng, các nước đang xích lại gần nhau thông qua chiếc cầu nối thương mại quốc tế. Vượt qua không gian và thời gian, những luồng chu chuyển hàng hóa, dịch vụ và tiền tệ đã tạo ra sự gắn kết bền vững giữa cung và cầu ở những nước có trình độ kinh tế khác nhau và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng kéo theo sự phức tạp ngày càng lớn trong mắt xích cuối cùng của quá trình trao đổi, thanh toán quốc tế. Điều đó đặt ra cho các ngân hàng thương mại phải phát triển các dịch vụ kinh tế đối ngoại một cách tương ứng, trong đó không thể không kể đến hoạt động thanh toán quốc tế với nhiều phương thức thanh toán đa dạng và phong phú. Trong các phương thức thanh toán này, tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến nhất do những ưu việt của nó. Song tín dụng chứng từ không phải là nghiệp vụ đơn giản, trong thực tế công tác này đã gặp phải không ít những rủi ro gây thiệt hại cả về tài chính lẫn uy tín cho các ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp cần hiểu rõ đối tác về năng lực tài chính, tiểu sử về hoạt động sản xuất kinh doanh, lĩnh vực xuất nhập khẩu; khi ký hợp đồng phải chặt chẽ và tuân thủ các quy định của tiêu chuẩn quốc tế, các nguồn luật cần tuân thủ để khi có xảy ra tranh chấp sẽ dễ giải quyết.
UCP ra đời với mục đích khắc phục các xung đột về luật điều chỉnh tín dụng chứng từ giữa các quốc gia bằng việc xây dựng một bản quy tắc thống nhất cho hoạt động tín dụng chứng từ. Bản UCP đang được áp dụng hiện nay là UCP 600 (The Uniform Custom and Practice for Documentary Credits, ICC Publication No. 600) vẫn còn khá mới mẻ đối với các DN cũng như các NHTM. Chính vì vậy mà chúng tôi mạnh dạn đưa ra đề tài nghiên cứu: “ Một số vấn đề cần lưu ý của UCP 600” qua đó đưa ra một số đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các bên, giảm thiểu rủi ro trong phương thức thanh toán này.
Phần I:
Khái quát về ICC và UCP 600
1. Vài nét về phòng thương mại quốc tế ICC
Quyết định thành lập Phòng thương mại quốc tế (The International chamber of commerce dưới đây viết tắt là ICC) được thông qua tại Hội nghị quốc tế về thương mại, họp tại thành phố Atlantic-city vào tháng l0/1919, với sự tham gia của đại diện giới thương mại và công nghiệp của 5 nước Mỹ, Anh, Pháp, Bỉ và Ý. Ngày 24/10/1919 ngày thông qua quyết định thành lập ICC được coi là ngày thành lập ICC. Tháng 6/1920, tại Pa-ri đă tiến hành họp Ðại hội sáng lập (Constituent Congress) ICC với sự tham gia của gần 500 đại diện của 5 nước nói trên. Tại Ðại hội này, người ta đã thông qua Ðiều lệ, thành lập các cơ quan chức năng và quyết định lấy Paris làm trụ sở chính của ICC.
82 năm đă trôi qua kể từ khi điều lệ hoạt động của ICC được thông qua. Trong ngần ấy năm trời, điều lệ của ICC đă nhiều lần được sửa đổi, bổ sung. Song toàn bộ những sửa đổi, bổ sung đó không làm thay đổi bản chất của điều lệ cũng như cơ cấu tổ chức của ICC mà chỉ nhằm làm rõ hơn nữa mục đích và nhiệm vụ mà ICC đã vạch ra cho mình từ những ngày đầu và hoàn thiện thêm cơ cấu tổ chức, nhằm bảo đảm cho việc lãnh đạo hoạt động của toàn bộ hệ thống các cơ quan của ICC có kết quả hơn.
Theo điều lệ, ICC là một liên đoạn tập hợp những lực lượng kinh tế chủ yếu nhất của từng nước hội viên vào các ủy ban quốc gia (National committes) ICC là một tổ chức Quốc tế phi chính phủ.
Mục đích và nhiệm vụ chính thức của ICC, như điều lệ qui định là: thông qua việc tác động tới tất cả các lĩnh vực của hoạt động kinh tế quốc tế bao gồm thương mại, công nghiệp, vận tải và tài chính) nhằm cài thiện các điều kiện quan hệ kinh tế giữa các nước và giải quyết những vấn đề kinh tế quốc tế, thiết lập các mối giao tiếp quốc tế và sự hiểu biết tương hỗ giữa các giới kinh tế và các tổ chức của chúng để trên cơ sở đó "gìn giữ hòa bình và củng cố các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc".
Song, trong thực tế, ngay từ lúc mới thành lập, ICC đã trở thành một tổ chức đai diện cho quyền lợi của các giới độc quyền ở các nước đế quốc. Các chinh kiến chính trị, triết học làm cơ sở nền tảng cho hoạt động của ICC, liên minh riêng của các giới đại diện khổng lồ của thế giới tư bản cùng những ảnh hưởng chính trị của họ, sự hiểu biết tuyệt vời về trạng thái kinh tế và các quy luật của các nước TBCN đã khiến cho ICC trở thành cương lĩnh thúc đẩy liên kết TBCN, hình thành và phát triển hệ thống liên đoàn độc quyền quốc tế.
Mục đích chủ yếu của ICC là bằng mọi cách, bảo vệ hòa bình cho các xí nghiệp kinh doanh tư nhân. Đấu tranh để thủ tiêu những trở ngại về kinh tế và chính trị đang kìm hãm việc tự do lưu thông tư bản, hàng hóa, sức lao động những nhà lãnh đạo ICC, dưới ảnh hưởng trực tiếp của chủ nghĩa độc quyền quốc tế, đang đưa ra một mô hình về thế giới TBCN trong tương lai như là một liên kết thống nhất trước hết là trong lĩnh vực kinh tế xã hội và sau đó là trong lĩnh vực chính trị. Họ cho rằng "hệ thống liên kết thống nhất" của TBCN sẽ dẫn tới việc sử dụng lực lượng sản xuất và tài nguyên hợp lý và có hiệu quả hơn và việc phân công lao động quốc tế trong thế giới TBCN cũng sẽ hợp lý hơn.
Các nhà tư bản luôn luôn coi ICC là người bảo vệ quyền lợi cho mình. ICC không phải là một tổ chức theo đuổi lục đích lợi nhuận nhưng nó được thành lập nhằm phục vụ cho các hãng, các công ty tư nhân TBCN chạy theo lợi nhuận và làm ra lợi nhuận. ICC là một tổ chức quốc tế hoạt động vì quyền lợi của các nhà kinh doanh tư nhân, được thành lập với mục đích thúc đẩy, nâng đỡ mọi bước đi của người buôn bán cá thể thông qua sự giúp đỡ có tính chất tập thể của các ủy ban quốc gia của ICC ở các nước cũng như của bản thân ICC.
Kể từ khi thành lập đến nay, ICC đã chứng kiến biết bao biến đổi của nền kinh tế thế giới. Nhiều tổ chức quốc tế kếch sù đã ra đời và những quan điểm về nền kinh tế thế giới hôm nay đã khác xa với những quan điểm từng có trước đây. Song, tất cả những điều đó không hề làm giảm vai trò và uy tín của ICC. ICC vẫn đang là trung tâm đầu não thai nghén ra những tư tưởng và sáng kiến, trung tâm phối hợp hoạt động của thế giới tư bản-thế giới sản sinh ra hàng loạt những vấn đề lớn trong lĩnh vực phát triển kinh tế nói chung và chính sách kinh tế và tài chính nói riêng. Tất cả những điều này có thể dễ dàng thấy được thông qua số lượng hội viên, cơ cấu tổ chức và hoạt động của ICC.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, số hội viên của ICC và số các nước có đại diện của mình ở ICC đã tăng lên một cách đáng kể. Nếu như trước chiến tranh, ICC chỉ tập hợp các đại diện tư bản tư nhân của các nước đế quốc chủ yếu ở Châu Âu và Bắc Mỹ thì ngày nay đã có hơn 100 nước ở khắp các lục địa có đại diện ở ICC. Tính đến tháng 4/1987, hội viên của ICC gồm 7000 hãng công ty tư nhân có hoạt động gắn liền với việc kinh doanh quốc tế (Intemational business) và gần 2000 tổ chức kinh tế (các liên doanh công nghiệp, các phòng thương mại, các hiệp hội ngân hàng khác nhau…) liên kết, hợp hàng nghìn xí nghiệp kinh doanh tư nhân.
2. Quy tắc và Thực hành thống nhất Tín dụng chứng từ UCP 600
Quy tắc và Thực hành thống nhất Tín dụng chứng từ (tên tiếng Anh: The Uniform Customs and Practice for Documentary Credits - viết tắt là UCP) là một bộ các quy định về việc ban hành và sử dụng thư tín dụng (hay L/C). Sau 03 năm soạn thảo và chỉnh lý, ngày 25 tháng 10 năm 2006 Uỷ ban Ngân hàng của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) đã thông qua Bản Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ mới (UCP 600) thay thế cho Bản Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ cũ (UCP 500). UCP 600 này sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2007.
Bản UCP đầu tiên được ICC phát hành từ năm 1933 với mục đích là khắc phục các xung đột về luật điều chỉnh tín dụng chứng từ giữa các quốc gia bằng việc xây dựng một bộ quy tắc thống nhất cho hoạt động tín dụng chứng từ. Theo đánh giá của các chuyên gia, UCP là bộ quy tắc (thông lệ quốc tế) tư nhân thành công nhất trong lĩnh vực thương mại. Ngày nay, UCP là cơ sở pháp lý quan trọng cho các giao dịch thương mại trị giá hàng tỷ đô la hàng năm trên toàn thế giới. UCP được các ngân hàng và các bên tham gia thương mại áp dụng ở trên 175 quốc gia. Khoảng 11-15% thương mại quốc tế sử dụng thư tín dụng với tổng giá trị hơn 1.000 tỷ USD mỗi năm.
UCP 600 có một số thay đổi cơ bản so với bản UCP 500 như sau:
Thứ nhất, UCP 600 đã bổ sung nhiều định nghĩa và giải thích thuật ngữ mới dể làm rõ nghĩa của các thuật ngữ còn gây tranh cãi trong bản UCP 500;
Thứ hai, thuật ngữ “thời gian hợp lý” (reasonable time) cho việc từ chối hoặc chấp nhận các tài liệu đã được thay thế bằng khoảng thời gian cố định là “05 ngày làm việc ngân hàng”;
Thứ ba, UCP 600 bổ sung thêm các quy định mới cho phép chiết khấu tín dụng thư chậm trả;
Thứ tư, theo UCP 600, các ngân hàng có thể chấp nhận tài liệu bảo hiểm có các nội dung dẫn chiếu đến các điều khoản miễn trừ (exclusion clause).
Để có thể hiểu và thực hiện chính xác, có hiệu quả các quy định của UCP 600, trong khoảng thời gian 07 tháng còn lại, các ngân hàng và doanh nghiệp được khuyến cáo là phải nghiên cứu kỹ lưỡng các quy định mới của UCP 600.
So với phiên bản cũ, UCP600 có nhiều điểm nổi bật hơn. Các từ ngữ trong thanh toán quốc tế được ghi ngắn gọn và rõ ràng hơn, các điều kiện giao dịch được cụ thể hóa hơn và không còn mơ hồ để có thể tạo ra tranh chấp giữa các bên. Cụ thể, UCP 600 giải thích các quy định pháp lý trong tín dụng và bổ sung mới như cho phép dùng các thuật ngữ “hạng nhất”, thời gian xử lý chứng từ đã được rút ngắn từ 7 ngày xuống 5 ngày…UCP 600 quy định nếu xuất trình chứng từ phù hợp thì phải thanh toán; nếu xuất trình không phù hợp, ngân hàng phát hành, ngân hàng xác nhận…có quyền từ chối thanh toán hoặc thương lượng thanh toán. Ở điều khoản 28, UCP 600 có quy định rõ ngoài đại lý, còn có thêm “người ủy quyền” tham gia bảo hiểm; quy định không gian bảo hiểm; quy định mức bảo hiểm tối
Khi công việc sửa đổi bản quy tắc ban đầu, một số khảo sát trên phạm vi quốc tế chỉ ra rằng khoảng 70% chứng từ xuất trình theo Thư tín dụng bị từ chối trong lần xuất trình đầu tiên do có những sai sót. Rõ ràng điều này đã và sẽ tiếp tục ảnh hưởng xấu đến Thư tín dụng vốn được coi là một phương tiện thanh tóan, và nếu không được điều chỉnh, sẽ có những tác động nghiêm trọng đến việc duy trì và gia tăng thị phần của tín dụng chứng từ như là một phương tiện thanh toán quan trọng trong thương mại quốc tế. Việc một số ngân hàng đưa ra phí sai biệt của chứng từ càng chứng tỏ tầm quan trọng của vấn đề này, đặc biệt là nhiều sai sót không rõ ràng và hợp lý. Mặc dù số vụ kiện cáo không tăng trong thời gian áp dụng UCP 500, việc ban hành bản Quy tắc Giải quyết tranh chấp về tín dụng chứng từ (DOCDEX) của ICC vào tháng 10/1997 (và được sửa đổi vào tháng 3/2002) đã dẫn đến hơn 60 vụ kiện phải xét xử.
Để giải quyết những vấn đề này và một số vấn đề khác có liên quan, Ủy ban Ngân hàng thành lập Nhóm soạn thảo để sửa đổi UCP 500. Nhóm thứ hai là nhóm tư vấn cũng được thành lập để rà soát và góp ý cho các dựthảo do Nhóm soạn thảo đệ trình. Nhóm tư vấn, với trên 40 thành viên từ 26 quốc gia, bao gồm nhiều chuyên gia trong ngành ngân hàng và vận tải. Dưới sự chỉ đạo của John Turbull, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn ngân hàng Sumitomo Mitsui Châu Âu tại London và Carlo Di Ninni, Cố vấn Hiệp hội ngân hàng Italia tại Rome, Nhóm tư vấn đã đưa ra những góp ý rất có giá trị cho Nhóm soạn thảo trước khi đệ trình dự thảo lên các ủy ban quốc gia của ICC.
Nhóm soạn thảo bắt đầu quá trình rà soát bằng việc phân tích những ý kiến chính thức của Ủy ban Ngân hàng đối với UCP 500. khoảng 500 ý kiến đã được xem xét để đáng giá xem khi giải quyết các vấn đề phát sinh sẽ cần phải sửa đổi, bổ sung hay xóa bỏ điều khoản nào trong UCP. Ngoài ra, Nhóm cũng xem xét 4 bản đánh giá do Ủy Ban Ngân hàng đưa ra vào tháng 9/1994, 2 Quyết định của Ủy ban Ngân hàng (liên quan đến đồng euro và quy định về việc xác định chứng từ gốc theo tiểu mục 20(b) của UCP 500 và các phán quyết được ban hành trong các vụ kiện của DOCDEX).
Trong quá trình sửa đổi, nhóm làm việc cũng lưu ý đến khối lượng công việc đáng kể phải hoàn thành khi soạn thảo Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế dùng để kiểm tra chứng từ trong phương thức tín dụng chứng từ (International Standard Banking Practice for the Examination of Documents under Documentary Credits – ISBP), ấn phẩm ICC số 645. Ấn phẩm này đã trở thành một tài liệu quan trọng kèm theo UCP để xác định mức độ phù hợp của chứng từ với các điều khoản của thư tín dụng. Nhóm soạn thảo và Ủy ban Ngân hàng hy vọng các nguyên tắc của ISBP, kể cả các sửa đổi sau này, sẽ tiếp tục được áp dụng trong thời gian UCP 600 có hiệu lực. Khi UCP 600 được áp dụng, ISBP cũng sẽ được cập nhật để nội dung của nó phù hợp với bản chất và hình thức của Quy tắc mới.
Bốn bản đánh giá phát hành vào tháng 9/1994 dựa trên các nguyên tắc của UCP 500, do đó sẽ không áp dụng được cho UCP 600. Những vấn đề quan trọng trong Quyết định về việc xác định chứng từ gốc đã được đưa vào nội dung của UCP 600. Phán quyết trong các vụ kiện của DOCDEX vẫn dựa theo ý kiến đánh giá của Ủy ban Ngân hàng ICC nên không có nội dung cụ thể nào cần điều chỉnh trong bản quy tắc này.
Một trong những thay đổi trong cấu trúc của UCP là đã đưa vào các điều khoản về định nghĩa (điều 2) và giải thích (điều 3). Khi đưa ra định nghĩa về vai trò của ngân hàng và ý nghĩa của các thuật ngữ và sự kiện cụ thể, UCP 600 không nhắc lại lời văn để mô tả cách giải thích và áp dụng. Tương tự, điều khoản giải thích nhằm loại bỏ sự mập mờ hoặc không rõ ràng trong ngôn ngữ thường xuất hiện trong thư tín dụng và đưa ra sự giải thích dứt khoát các đặc trưng của UCP hoặc thư tín dụng.
Trong 3 năm qua, các ủy ban quốc gia của ICC đã nghiên cứu hàng loạt vấn đề có liên quan để lựa chọn ra được văn bản phù hợp nhất mà nhóm soạn thảo trình lên. Kết quả của việc nghiên cứu này cũng như nhiều đóng góp của các Ủy ban quốc gia đối với nhiều mục trong văn bản được thể hiện rõ trong nội dung của UCP 600. Nhóm soạn thảo đã không chỉ xem xét thực tiễn đang diễn ra có liên quan đến tín dụng chứng từ mà còn cân nhắc cả những xu hướng phát triển của nó trong tương lai.
Bản sửa đổi UCP này là kết quả của hơn 3 năm phân tích rà soát, tranh luận và dung hòa giữa các thành viên của nhóm soạn thảo, Ủy ban Ngân hàng và các Ủy ban quốc gia có liên quan của ICC. Các góp ý rất có giá trị cũng được giử đến từ Ủy ban về Vận tải và logistics của ICC Ủy ban về pháp luật và Thực hành thương mại và Ủy ban về bảo hiểm.
Việt Nam đang đứng trước thềm hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới với tốc độ và quy mô trao đổi thương mại ngày càng tăng nhanh, một khi phương thức thanh toán tín dụng chứng từ vẫn là phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu thì yêu cầu tìm hiểu những quy tắc và tập quán quốc tế trong thanh toán xuất nhập khẩu như UCP 600 là một yêu cầu quan trọng cho các ngân hàng và doanh nghiệp Việt Nam.
3. Nội dung của UCP 600:
Điều 1: Áp dụng UCP
Điều 2: Định nghĩa
Điều 3: Giải thích
Điều 4: Tín dụng và hợp đồng
Điều 5: Các chứng từ và hàng hóa, dịch vụ hoặc các thực hiện
Điều 6: Thanh toán, ngày hết hạn và nơi xuất trình
Điều 7: Cam kết của Ngân hàng phát hành
Điều 8: Cam kết của Ngân hàng xác nhận
Điều 9: Thông báo tín dụng và các sửa đổi
Điều 10: Sửa đổi tín dụng
Điều 11: Tín dụng và sửa đổi được sơ báo và chuyển bằng điện
Điều 12: Sự chỉ định
Điều 13: Thỏa thuận hoàn trả giữa các ngân hàng
Điều 14: Tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ
Điều 15: Xuất trình phù hợp
Điều 16: Chứng từ có sai biệt, bỏ qua sai biệt và thông báo
Điều 17: Các chứng từ gốc và bản sao
Điều 18: Hóa đơn thương mại
Điều 19: Chứng từ vận tải dụng cho ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau
Điều 20: Vận tải đơn
Điều 21: Giấy gửi hàng đường biển không chuyển nhượng
Điều 22: Vận tải đơn theo hợp đồng thuê tàu
Điều 23: Chứng từ vận tải hàng không
Điều 24: Chứng từ vận tải đường bộ, đường sắt và đường song
Điều 25: Biên lai chuyển phát, biên lai bưu điện hoặc giấy chứng nhận bưu phẩm
Điều 26: Trên boong, người gửi hàng xếp và đếm, người gửi hàng kê khai gồm có và chi phí phụ thêm vào cước phí
Điều 27: Chứng từ vận tải hoản hảo
Điều 28: Chứng từ bảo hiểm và bảo hiểm
Điều 29: Gia hạn ngày hết hạn hiệu lực và ngày xuất trình cuối cùng
Điều 30: Dung sai về số tiền, số lượng và đơn giá
Điều 31: Giao hàng hoặc thanh toán từng phần
Điều 32: Giao hàng hoặc thanh toán nhiều lần
Điều 33: Giờ xuất trình
Điều 34: Miễn trách về hiệu lực của chứng từ
Điều 35: Miễn trách về dịch thuật và chuyển giao thư tín
Điều 36: Bất khả kháng
Điều 37: Miễn trách về hành động của một bên ra chỉ thị
Điều 38: Tín dụng có thể chuyển nhượng
Điều 39: Chuyển nhượng số tiền thu được
4. Những con số thống kê
Quá trình sửa đổi UCP kéo dài hơn 3 năm (bắt đầu từ tháng 5/2003). Nhóm Dự Thảo UCP 600 đã có 15 cuộc họp với tổng thời gian hơn 45 ngày và đã nhận được khoảng 5000 ý kiến từ các UBQG. UBNH đã dành 7 ngày để thảo luận nội dung của UCP 600, bao gồm một cuộc họp thêm ở Dublin dành toàn bộ thời gian cho việc sửa đổi. Có 15 bản dự thảo được gửi đi; trong đó có 3 bản dự thảo đầy đủ. 9 bản dự thảo trong số 15 bản dự thảo đã được Nhóm Tư Vấn ICC xem xét trước khi được gửi đến các UBQG. Những bản dự thảo liên quan được gửi đến các uỷ ban chuyên môn của ICC: Uỷ ban Vận tải và Logistics, Uỷ ban Tập quán và Luật Thương mại và Uỷ ban Bảo hiểm để xem xét.
Phần II:
Một số điểm đáng lưu ý trong UCP 600
1. Những quy định tiến bộ trong UCP 600:
UCP 600 có những ưu điểm nổi bật sau đây:
1.1. Về hình thức
UCP 600 được bố cục lại với 39 điều khoản (so với 49 điều khoản của UCP 500) và được sắp xếp một cách khoa học, dễ tra cứu, trong đó bổ sung nhiều định nghĩa và giải thích thuật ngữ mới để làm rõ nghĩa của các thuật ngữ còn gây tranh cãi trong bản UCP 500.
Xét Điều 2 UCP 600:
“Ngân hàng thông báo là ngân hàng tiến hành thông báo tín dụng theo yêu cầu của ngân hàng phát hành.
Người yêu cầu là bên mà theo yêu cầu của bên đó, một tín dụng được phát hành.
Ngày làm việc ngân hàng là ngày mà vào ngày đó ngân hàng thường xuyên mở cửa tại nơi mà ở nơi đó một hoạt động có liên quan đến các Quy tắc này được thực hiện.
Người thụ hưởng là bên mà vì quyền lợi của bên đó, một tín dụng được phát hành.
Xuất trình phù hợp nghĩa là việc xuất trình chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của tín dụng, với các điều khoản có thể áp dụng của các Quy tắc này và với tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế.
Xác nhận là một cam kết chắc chắn của ngân hàng xác nhận thêm vào sự cam kết chắc chắn của ngân hàng phát hành để thanh toán hoặc thương lượng thanh toán khi xuất trình phù hợp.
Ngân hàng xác nhận là ngân hàng theo yêu cầu hoặc theo sự ủy quyền của ngân hàng phát hành thêm sự xác nhận của mình đối với một tín dụng.
Tín dụng là bất cứ một sự thỏa thuận nào, dù cho được mô tả hoặc đặt tên như thế nào, là không thể hủy bỏ và theo đó là một sự cam kết chắc chắn của ngân hàng phát hành để thanh toán khi xuất trình phù hợp.
Thanh toán có nghĩa là
trả ngay khi xuất trình, nếu tín dụng có giá trị thanh toán ngay.
Cam kết thanh toán về sau và trả tiền khi đáo hạn, nếu tín dụng có giá trị thanh toán về sau.
Chấp nhận hối phiếu do người thụ hưởng ký phát và trả tiền khi đáo hạn, nếu tín dụng có giá trị thanh toán bằng chấp nhận.
Ngân hàng phát hành là ngân hàng theo yêu cầu của người yêu cầu hoặc nhân danh chính mình phát hành một tín dụng.
Thương lượng thanh toán là việc ngân hàng chỉ định mua các hối phiếu (ký phát đòi tiền ngân hàng khác, trừ ngân hàng chỉ định) và/hoặc các chứng từ khi xuất trình phù hợp bằng cách trả tiền trước hoặc ứng tiền trước cho người thụ hưởng vào hoặc trước ngày làm việc ngân hàng mà vào ngày đó ngân hàng chỉ định được hoàn trả tiền...”
( Nhận xét: rõ ràng ta thấy các định nghĩa và giải thích thuật ngữ rõ ràng này sẽ giúp cho các bên tham gia trong quy trình thanh toán tín dụng chứng từ tránh khỏi tranh chấp không đáng có.
Đặc biệt về thương lượng thanh toán, trong UCP 500, thuật ngữ này được