Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được
ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và nhiều văn bản pháp luật. Khiếu nại, tố
cáo là hình thức dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia quản lý Nhà nước,
quản lý xã hội, b ảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức và công dân. Do đó, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân thực
hiện đầy đủ quyền khiếu nại, tố cáo của mình và tham gia giám sát hoạt động
của cơ quan Nhà nước.
Điều 74 Hiến pháp năm 1992 có quy định: “Công dân có quyền khiếu
nại, quyền tố cáo của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải
được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời gian pháp luật quy
định. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền
khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác. Mọi hành vi xuất
phát lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân
phải được kịp thời xử lý nghiêm minh”.
Để cụ thể hoá quyền khiếu nại, tố cáo được quy định tại Hiến pháp
tháng 12/1998, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá IX đã thông qua Luật Khiếu
nại, tố cáo. Luật Khiếu nại, tố cáo ra đời đã tạo điều kiện cho công dân thực
hiện quyền khiếu nại, tố cáo, phát huy dân chủ, b ảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tại phiên họp ngày 01/6/2004, Quốc hội đã
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo.
26 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6320 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số vấn đề cơ bản về khiếu nại, tố cáo và tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn Thành phố Lạng Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ……………………
TIỂU LUẬN
Một số vấn đề cơ bản về khiếu nại, tố cáo và tình hình giải
quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn Thành phố Lạng Sơn
lời nói đầu
2
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được
ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và nhiều văn bản pháp luật. Khiếu nại, tố
cáo là hình thức dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia quản lý Nhà nước,
quản lý xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức và công dân. Do đó, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân thực
hiện đầy đủ quyền khiếu nại, tố cáo của mình và tham gia giám sát hoạt động
của cơ quan Nhà nước.
Điều 74 Hiến pháp năm 1992 có quy định: “Công dân có quyền khiếu
nại, quyền tố cáo của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải
được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời gian pháp luật quy
định. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền
khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác. Mọi hành vi xuất
phát lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân
phải được kịp thời xử lý nghiêm minh”.
Để cụ thể hoá quyền khiếu nại, tố cáo được quy định tại Hiến pháp
tháng 12/1998, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá IX đã thông qua Luật Khiếu
nại, tố cáo. Luật Khiếu nại, tố cáo ra đời đã tạo điều kiện cho công dân thực
hiện quyền khiếu nại, tố cáo, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tại phiên họp ngày 01/6/2004, Quốc hội đã
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo.
Qua tổng kết 5 năm thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo cho thấy nhìn
chung quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã được tôn trọng và thực hiện
nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, ở một số địa phương vẫn còn xảy ra tình trạng
khiếu tố đông người hoặc vượt cấp, có nơi còn hình thành “điểm nóng”. Một
trong những nguyên nhân dẫn đến trung tâm trên là thuộc về chủ quan của các
cơ quan có thẩm quyền khiếu nại, tố cáo.
3
Bản thân tôi luôn xác định các vấn đề về công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo là hết sức quan trọng và sát thực với vai trò, vị trí hiện nay của mình.
Do đó, tôi chọn chuyên đề: “Một số vấn đề cơ bản về khiếu nại, tố cáo và
tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn Thành phố Lạng Sơn”.
Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí giảng viên
trường Cán bộ Thanh tra để bài viết của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
4
Phần thứ nhất
Một số vấn đề cơ bản về khiếu nại, tố cáo
I. Khiếu nại:
Theo điều 2, khoản 1 Luật Khiếu nại, tố cáo: Khiếu nại là việc công
dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy
định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi
có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, khi nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền thì cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải thụ lý giải quyết theo trình tự quy định
của pháp luật. Trình tự, thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính được
Luật Khiếu nại, tố cáo quy định có sự thay đổi căn bản so với trước đây. Pháp
lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 quy định trình tự, thẩm quyền
giải quyết khiếu nại hành chính theo thẩm quyền ba cấp: Thủ trưởng cơ quan,
đơn vị có vụ việc khiếu nại; Chánh Thanh tra trực thuộc cơ quan cấp trên trực
tiếp và cuối cùng là Thủ trưởng của Chánh Thanh tra. Trong đó Thanh tra
Nhà nước các cấp, các ngành là một cấp thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Từ ngày 01/7/1996 khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính có hiệu lực, trình tự thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính có thay
đổi. Sau khi khiếu nại được giải quyết lần đầu mà không chấm dứt, tiếp theo
có sự “rẽ nhánh” lựa chọn trong một hai con đường: tiếp tục khiếu nại lên cơ
quan hành chính cấp trên hoặc khởi kiện ra Tòa án.
Từ ngày 01/01/1998 Luật Khiếu nại, tố cáo có hiệu lực thi hành; và
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo 26/4/2004 có
hiệu lực từ 01/10/2004 thì trình tự thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành
chính có thay đổi căn bản. Theo đó, thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết khiếu
nại hành chính là Thủ trưởng cơ quan Thanh tra không là một cấp có thẩm
quyền, trách nhiệm giải quyết như quy định trước đây nhưng theo quy định tại
5
điều 27 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo quy định:
“Chánh Thanh tra các cấp, các ngành có trách nhiệm xác minh, kết luận, kiến
nghị việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan quản
lý cùng cấp”. Vấn đề “rẽ nhánh” giải quyết theo con đường Tòa án xét xử vụ
án hành chính vẫn được thực hiện, nhưng với các điều kiện thuận lợi hơn cho
người đi khiếu nại.
Về trình tự, thủ tục các bước giải quyết khiếu nại:
Bước 1: Chuẩn bị giải quyết khiếu nại.
* Nghiên cứu hồ sơ vụ việc:
Nghiên cứu hồ sơ vụ việc là một khâu quan trọng của bước chuẩn bị.
Mục đích của khâu này nhằm làm rõ và củng cố nội dung chủ yếu về vụ việc.
Chẳng hạn như: tên, địa chỉ, trạng thái thần kinh, tư cách người khiếu nại; cơ
sở, các căn cứ yêu cầu trong khiếu nại; thẩm quyền giải quyết và tính chất của
vụ, việc… vì vậy kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ, việc là căn cứ để cấp có thẩm
quyền quyết định lựa chọn giải quyết theo trình tự thủ tục nào. Việc nghiên
cứu hồ sơ vụ, việc được thực hiện như sau:
Nghiên cứu hồ sơ vụ, việc: Sau khi khiếu nại được gửi đến cơ quan có
thẩm quyền giải quyết thì hồ sơ vụ, việc khiếu nại được xác lập và hồ sơ tại
thời điểm này thường là thông tin, tài liệu do bên khiếu nại cung cấp: Đơn
hoặc biên bản ghi lời khiếu nại; bằng chứng về quyết định hành chính hoặc
hành chính bị khiếu nại; Tài liệu có liên quan.
Nghiên cứu vụ, việc qua đương sự: Khi việc nghiên cứu qua hồ sơ chưa
làm rõ được các yêu cầu thì có thể kết hợp qua tiếp xúc với đương sự, yêu cầu
họ trình bày, cung cấp thêm tài liệu chứng cứ. Thông qua đó các bên có cơ
hội hiểu kỹ hơn về các vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích, nghĩa vụ của mình
trong vụ, việc. Người khiếu nại có thể nhận thức lại và thay đổi quyết định
của mình về khiếu nại như điều chỉnh nội dung khiếu nại, rút đơn khiếu nại và
họ có thể nhận ra sai phạm để khắc phục, sửa chữa.
6
Nghiên cứu tại địa bàn: Đôi khi việc nghiên cứu khảo sát ban đầu phải
xuống địa bàn nơi có vụ, việc bị khiếu nại. Trên thực tế, nhiều vụ khiếu nại
nhờ có khảo sát tại địa bàn mà cán bộ nghiệp vụ đã sớm có cách được cách xử
lý giải quyết kịp thời khiếu nại, chấm dứt sớm hoặc có cách giải quyết thích
hợp sau này. Đặc biệt với vụ, việc được nhận định phức tạp việc nghiên cứu
sơ bộ tại địa bàn thường là công việc bắt buộc trước khi thụ lý.
Qua tiếp xúc nghiên cứu sơ bộ ban đầu nội dung khiếu nại, tính chất
vụ, việc sơ bộ được xác định rõ. Do đó, khiếu nại có thể chấm dứt do người
khiếu nại tự nguyện rút đơn (việc rút đơn phải làm thành văn bản). Đối với
vụ, việc đơn giản, tài liệu, chứng cứ đầy đủ thì khiếu nại có thể được giải
quyết ngay, khiếu nại chấm dứt. Sau khi hoàn tất việc nghiên cứu sơ bộ, cán
bộ nghiệp vụ báo cáo khảo sát vụ, việc gửi lên cấp có thẩm quyền để làm căn
cứ xử lý giải quyết vụ, việc.
* Thụ lý giải quyết vụ, việc:
Đây là khâu tiếp theo sau khi đã hoàn tất nghiên cứu hồ sơ vụ, việc.
Căn cứ hồ sơ và báo cáo khảo sát của cán bộ nghiệp vụ, nếu khiếu nại thoả
mãn các điều kiện quy định tại Điều 1 của Nghị định số 53/2005/NĐ-CP thì
trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận đơn khiếu nại, cấp thẩm quyền quyết
định thụ lý giải quyết vụ, việc và gửi thông báo cho người khiếu nại biết. Nếu
khiếu nại không đủ điều kiện thụ lý thì trả lời bằng văn bản cho người khiếu
nại và nêu rõ lý do.
Quyết định thụ lý giải quyết khiếu nại của cấp thẩm quyền là căn cứ
pháp lý để tiến hành giải quyết theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Thực
tế hiện nay nhiều cơ quan, đơn vị còn xem nhẹ thủ tục này, chưa xác định
việc quyết định thụ lý vụ, việc là một khâu bắt buộc trong giải quyết khiếu
nại, là cơ sở trong giải quyết khiếu nại.
Sau khi có quyết định thụ lý giải quyết, hồ sơ vụ, việc có thể được
chuyển tiếp bàn giao cho cán bộ nghiệp vụ để thẩm tra, xác minh vụ, việc. Do
7
vậy việc bàn giao hồ sơ phải chặt chẽ, đầy đủ đảm bảo tính liên tục của thông
tin, tài liệu được xử lý.
* Xây dựng kế hoạch giải quyết vụ, việc:
Kế hoạch giải quyết vụ, việc cần nêu ra công việc phải làm, tiến độ thời
gian của từng việc cụ thể, dự kiến được các tình huống phát sinh khi thực hiện
và các điều kiện bảo đảm cần thiết khi tiến hành giải quyết vụ, việc khiếu nại.
Kế hoạch giải quyết chi tiết, đầy đủ ở mức nào hoàn toàn phụ thuộc vào tính
chất, đặc điểm cụ thể của từng vụ, việc.
Trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ, xác định tính chất, đặc điểm, mức độ
phức tạp của vụ, việc (đối tượng liên quan, phạm vi liên quan, mức độ thiệt
hại do vi phạm pháp luật gây ra, đã qua cấp nào giải quyết…) để xây dựng kế
hoạch giải quyết, trong đó phải nêu được: Những nội dung cần phải nghiên
cứu bổ sung; Những vấn đề cần phải thẩm tra, xác minh; Yêu cầu cơ quan nào
giải trình và giải trình vấn đề gì; Gặp gỡ (cơ quan cá nhân, người liên quan…)
để thu thập thông tin; thẩm tra, xác định chứng cứ; Các điều kiện tài chính,
nhân lực, giải quyết; Khả năng vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết; Dự
kiến phương pháp, cách thức tiến hành; Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ nào
là chính theo thời gian, nội dung cụ thể; Tiến độ thời gian…
Kế hoạch giải quyết vụ, việc được báo cáo người quyết định thụ lý vụ,
việc. Đó là căn cứ cho thực hiện công việc giải quyết.
* Tập hợp và nghiên cứu tài liệu liên quan:
Từ kế hoạch được nêu ra, để có căn cứ pháp lý và tài liệu giúp cho việc
giải quyết vụ, việc nhanh chóng, người thụ lý phải sưu tầm, tập hợp các tài
liệu có liên quan như: Văn bản, tài liệu do đơn thư khiếu nại đề cập làm căn
cứ để khôi phục, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; Văn bản tài
liệu liên quan đến quyết định, hành vi bị khiếu nại (Đây cũng là tài liệu phục
vụ cho việc xem xét bảo đảm tính đúng đắn, hợp pháp của quyết định hành
chính hoặc hành vi bị khiếu nại); Văn bản tài liệu nghiệp vụ hướng dẫn chỉ
đạo giải quyết khiếu nại hành chính của công dân và các lĩnh vực liên quan;
8
Văn bản tài liệu tham khảo; đặc điểm lãnh thổ, dân cư, tài liệu phục vụ giải
quyết tương tự…
Tuỳ theo tính chất tài liệu tham khảo, văn bản được sử dụng mà đòi hỏi
các điều kiện pháp lý cho văn bản đó.
Trên cơ sở kế hoạch giải quyết đã được thông qua và tài liệu về vụ, việc
cần thiết phải nghiên cứu, tập huấn nghiệp vụ trước khi triển khai chính thức.
Bước 2: Thẩm tra, xác minh vụ, việc.
Quyết định giải quyết khiếu nại của cấp có thẩm quyền phụ thuộc vào
những báo cáo, kết luận, kiến nghị của cán bộ thụ lý giải quyết. Báo cáo kết
luận phải trên cơ sở các tài liệu, thông tin về vụ, việc đã được thu thập, kiểm
tra, xác minh phù hợp với quy định của pháp luật và đây là bước quyết định
trong xem xét giải quyết vụ, việc khiếu nại. Đồng thời nó cũng là bước đòi
hỏi cao nhất về trình độ nghiệp vụ, năng lực hoạt động nghề nghiệp của cán
bộ thụ lý giải quyết vụ, việc.
Khi tiến hành thẩm tra, xác minh vụ, việc cần thiết vận dụng một số
biện pháp nghiệp vụ cơ bản sau:
Biện pháp 1: làm việc với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người
có liên quan: Thực chất đây là quá trình khai thác thông tin từ các đối tượng
có liên quan đến vụ, việc thông qua giao tiếp hành chính có yêu cầu cụ thể.
Phải chủ động và chuẩn bị kỹ về nội dung, về nghiên cứu đối tượng, thủ pháp
nghiệp vụ để mau chóng đi đến vấn đề cần quan tâm xác minh.
Biện pháp 2: Kiểm tra đối chiếu, xem xét thực tế: Việc kiểm tra, đối
chiếu xem xét cụ thể hồ sơ, tài liệu, kho, quỹ liên quan hoặc đến tại nơi có sự
kiện vụ, việc là cần thiết. Đây là một biện pháp chủ đạo, độ tin cậy cao của
công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trên cơ sở đó cán bộ nghiệp
vụ đưa ra kết luận nội dung gì, điều kiện gì sau khi đã thẩm tra, xác minh các
tài liệu sự kiện… Do vậy, việc kiểm tra đối chiếu xem xét đến tận nơi vừa là
khâu kết thúc đánh giá chứng cứ, nhưng cũng có thể là khâu khởi đầu cho
việc đưa đến thu thập thông tin, xác định chứng cứ tiếp theo.
9
Khâu chuẩn bị cho công việc này bao gồm những vấn đề đã thu thập
được, những vấn đề cần phải làm rõ, những số liệu, hiện vật, địa điểm đã
được cung cấp… Đó là nội dung cần thiết phải làm rõ.
Chọn yếu tố, tiêu chí nào là đặc trưng, cơ bản để kiểm tra, lựa chọn
thiết lập phương pháp kiểm tra như thế nào cho phù hợp lại là vấn đề then
chốt quyết định trong sử dụng biện pháp nghiệp vụ này.
Các phương tiện, điều kiện phục vụ như tài chính, giao thông, kỹ thuật
nghiệp vụ… sẽ giúp cho khâu kiểm tra, xem xét có Kết quả tốt.
Biện pháp 3: Yêu cầu giám định (nếu cần): Biện pháp nghiệp vụ này
được sử dụng khi tính đúng đắn, chân thực của tài liệu được cung cấp, hiện
vật thu thập được mà qua kiểm tra, xem xét thông thường không mang lại kết
quả. Khi đó cán bộ thụ lý phải nhờ đến kết luận của các nhà chuyên môn, của
các cơ quan, tổ chức mà pháp luật cho phép đánh giá, kiểm tra, xem xét làm
rõ tình trạng tài liệu, hiện vật. Thủ tục yêu cầu và nhận xét kết quả giám định
phải thực hiện chặt chẽ…
Biện pháp 4: Tổ chức đối chất (nếu cần) giữa các đối tượng cung cấp
thông tin mâu thuẫn nhau: Khi cần thiết, tổ chức các đối tượng cùng nhau giải
thích về thông tin tài liệu cung cấp để khẳng định tính trung thực của mỗi bên.
Đối chất có thể tiến hành khi một trong hai bên đề nghị hoặc do chủ động của
cán bộ thẩm tra xác minh vụ, việc yêu cầu.
Biện pháp 5: Xác nhận cơ quan có thẩm quyền: Văn bản được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền cung cấp là một căn cứ pháp lý để cán bộ nghiệp vụ
xem xét, kết luận vấn đề trong quá trình thẩm tra xác minh vụ, việc.
Biện pháp 6: Sử dụng các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ: Các phương
tiện kỹ thuật được sử dụng hợp lý với tư cách là phương tiện kỹ thuật nghiệp
vụ, sẽ tham gia thúc đẩy quá trình giải quyết khiếu nại kịp thời, chính xác và
kinh tế.
Các phương tiện kỹ thuật, khoa học – công nghệ như: máy ảnh, máy
ghi âm, ghi hình, thiết bị sao chép, dự báo, phương tiện computer, bảo vệ văn
10
bản thông tin thanh tra xét khiếu tố… phải được xác định đúng vị trí trong
hoạt động nghiệp vụ. Cần thiết phải nghiên cứu sử dụng chúng một cách hiệu
quả, hợp lý. Tuy nhiên, hiện nay các phương tiện kỹ thuật được trang bị, sử
dụng vào hoạt động nghiệp vụ còn rất hạn chế. Thậm chí chưa có cách nhìn
thống nhất về vấn đề này. Cơ chế xin, cho chưa được thay thế bằng đầu tư
trang bị thống nhất.
Biện pháp 7: Đánh giá thông tin, xác định chứng cứ: Với biện pháp
này cán bộ nghiệp vụ tiến hành phân tích, tổng hợp so sánh trên tài liệu chứng
cứ, qua tiếp xúc với các bên, qua đối chất, kiểm tra, xem xét thực tế… để
đánh giá thông tin đã thu thập, xác định chứng cứ theo đặc trưng chứng cứ: có
thật, liên quan, thu thập hợp pháp.
Bằng phân tích, tổng hợp, so sánh… các vấn đề được đối chiếu với các
quy định của văn bản pháp luật, chính sách của Nhà nước, tìm ra được nguyên
nhân sai phạm, mục đích, động cơ của các hành vi trong khiếu nại… xác định
tính đúng sai, chân thực của từng nội dung cụ thể mà khiếu nại đề cập.
Trình tự vận dụng các biện pháp nghiệp vụ phụ thuộc vào quá trình giải
quyết cụ thể của vụ, việc khiếu nại. Quá trình vận dụng phải được thực hiện
trong mối quan hệ liên tục phát triển có thể theo nhiều vòng khác nhau: Kiểm
tra xem xét, gặp gỡ đương sự, phân tích so sánh, kiểm tra xem xét… quá trình
vận dụng đó phải là quá trình tổng hợp nhiều biện pháp và phải biết sử dụng
thông tin phù hợp nhằm làm cho việc vận dụng các biện pháp có hiệu quả.
* Đối thoại trực tiếp:
Theo quy định tại Điều 37 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Khiếu nại, tố cáo thì: “Người giải quyết khiếu nại lần đầu phải gặp gỡ, đối
thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại để làm rõ nội dung
khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng dẫn giải quyết khiếu nại…”.
Như vậy đối thoại trực tiếp trong giai đoạn giải quyết khiếu nại lần đầu là một
thủ tục bắt buộc theo quy định của pháp luật. Còn đối với giải quyết khiếu nại
11
tiếp theo thì việc tổ chức đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị
khiếu nại chỉ trong những trường hợp cần thiết.
* Báo cáo thẩm tra xác minh:
Kết thúc bước thu thập thông tin, xác định chứng cứ làm rõ các vấn đề
cần thẩm tra, xác minh, cán bộ nghiệp vụ được giao thẩm tra, xác minh vấn đề
nào phải làm báo cáo thẩm tra xác minh vấn đề đó. Đây là phần thể hiện công
việc của cán bộ, thanh tra viên về phần việc được giao thẩm tra, xác minh.
Bước 3: Ra quyết định và công bố quyết định.
* Tổng hợp báo cáo chuẩn bị tài liệu:
Đây là khâu tổng hợp toàn bộ phần công việc đã làm của cán bộ thụ lý
giải quyết. báo cáo tổng hợp chỉ rõ các công việc đã thẩm tra, xác minh để đi
đến kết luận, kiến nghị phục vụ cho việc đưa ra quyết định giải quyết khiếu
nại. Báo cáo tổng hợp bao gồm nội dung cơ bản sau: Tóm tắt khái quát vụ,
việc; Quá trình thụ lý giải quyết của các cấp thẩm quyền; Quá trình thẩm tra
xác minh; Nhận xét, kết luận, kiến nghị.
Báo cáo tổng hợp kết quả thẩm tra, xác minh và tài liệu kèm theo được
trình lên cấp có thẩm quyền. Căn cứ báo cáo tổng hợp kết quả thẩm tra, xác
minh của thủ trưởng cơ quan chuyên môn hoặc Chánh Thanh tra, thủ trưởng
cơ quan quản lý Nhà nước ra quyết định giải quyết.
* Ra quyết định và công bố quyết định giải quyết khiếu nại:
Ra quyết định giải quyết:
Ra quyết định giải quyết là khâu kết thúc xem xét giải quyết khiếu nại
theo thẩm quyền. Quyết định giải quyết khiếu nại được ban hành khi đã có
báo cáo thẩm tra, xác minh và đã xem xét các khía cạnh khác nhau của
phương án dự kiến.
Quyết định giải quyết khiếu nại xác định quan hệ ràng buộc trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trước pháp luật. Người
khiếu nại, người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức phải thực hiện quyết định để
12
khôi phục bảo vệ quyền, lợi ích của các bên theo nội dung quyết định đề cập
đến.
Quyết định giải quyết khiếu nại phải đảm bảo được những yêu cầu về
hình thức, nội dung theo quy định:
Về hình thức: thể hiện Đảng các yếu tố của một quyết định hành chính
được ban hành theo thẩm quyền.
Về nội dung: thể hiện được thái độ dứt khoát của cơ quan thẩm quyền
trong giải quyết vụ, việc khiếu nại. Quyết định bao gồm các vấn đề cơ bản
sau: Nội dung khiếu nại; Quyết định về nội dung khiếu nại. Tính chất đúng
sai, mức độ cụ thể; Căn cứ pháp luật để giải quyết khiếu nại; Kết quả thẩm
tra, xác minh; Việc xử lý quyết định hành chính, hành vi hành chính vi phạm
pháp luật, giải quyết các vấn đề khác; Giải quyết quyền và lợi ích các bên có
liên quan; Quyền được khiếu nại tiếp theo như thế nào.
Quyết định giải quyết khiếu nại được gửi cho người khiếu nại, người có
quyền lợi ích liên quan; Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp; Chánh Thanh
tra cấp trên trực tiếp.
Công bố quyết định giải quyết:
Điều 37 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo
quy định: “Khi cần thiết thì người giải quyết khiếu nại lần đầu công bố công
khai quyết định giải quyết khiếu nại đối với người khiếu nại, người bị khiếu
nại”.
Việc công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại có thể tuỳ theo
vụ, việc cụ thể mà triệu tập hay không triệu tập thêm các thành phần. Đôi khi
do tính chất của vụ, việc, quyết định có thể công bố qua các phương tiện
thông tin đại chúng để tuyên truyề