Tiểu luận Một số ý kiến về vấn đề trồng, khai thác và bảo vệ rừng trong giai đoạn hiện nay

Việt Nam là một trong số mười nước trồng rừng nhiều nhất thế giới. Cùng với tài nguyên đất, nước, thực vật và động vật rừng là loại tài nguyên có khả năng tái sinh và có vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của con người. Có thể kể đến ngay nguồn cung cấp oxy cho khí quyển chính là từ rừng, nhân tố này đặc biệt quan trọng cho sự tồn tại của sinh vật. Kế đến, thực thể sinh học này là màng lọc không khí trong lành như: cản khói bụi, hạn chế nhiều loại vi khuẩn, siêu vi khuẩn gây hại cho người và các động vật. Rừng còn là nhân tố quan trọng trong điều hoà khí hậu quả đất hay chính là lá phổi xanh của trái đất. Đây còn là nguồn cung cấp nguyên liệu, hợp chất hoá học, lương thực, thực phẩm cho con người Ngoài ra rừng có mối quan hệ mật thiết với đất, tham gia vào các quá trình hình thành phát triển đất, ngược lại đất là cơ sở duy trì sự tồn tại và phat triển của rừng. Hệ thống đất- rừng đảm nhiệm chức năng quan trọng là yếu tố tối cần thiết cho sự sống con người và các động vật khác. Với nhiều vai trò quan trọng như vậy, nhưng hiện nay cùng với quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, một số lượng đất rừng đã bị chuyển đổi mục đích sử dụng, nghiêm trọng hơn là việc khai thác quá mức dẫn đến những hậu quả khó lường. Từ đó có thể thấy trồng rừng là một quyết sách cấp thiết của chính phủ, và nhiều dự án, chương trình hành động đã được đưa ra. Tuy nhiên những biện pháp ấy đã dược cụ thẻ hoá bằng hành động như thế nào? Đã có ý nghĩa thiết thực gì để làm tăng diện tích rừng của Việt Nam ? Trong bài tiểu luận nhỏ này, chúng tôi xin đưa ra một số nhận xét dưới góc độ khách quan về một trong số những dự án trên, cụ thể là:” Dự án trồng mới 5 triệu hecta rừng” được Quốc Hội thông qua tháng 08/1997. Thêm vào đó là một số ý kiến đóng góp về việc bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng :Rừng

doc27 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3799 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số ý kiến về vấn đề trồng, khai thác và bảo vệ rừng trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TIỂU LUẬN SINH THÁI NHÂN VĂN “MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ VẤN ĐỀ TRỒNG, KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY” Nhóm sinh viên thực hiện: 1.ĐỖ THỊ THANH LOAN(532248) 2.LÊ THÀNH NAM(532255) 3.NGUYÊN VĂN BÌNH(532204) 4.HOÀNG THỊ NGÂN HÀ (532218) MỤC LỤC Phần I: Mở đầu Phần II: Thân bài 1.Hiện trạng 2. Nguyên nhân 3. Giải pháp 3.1. Đề xuất của cá nhân người viết 3.2. Những giải pháp của nhà nước (khái quát về dự án trồng mới 5 triệu hecta rừng) 3.3. Vài nét phân tích và đánh giá về dự án Trồng mới 5 triệu hecta rừng của nhóm thực hiện đề tài 3.4. Đánh giá chung về dự án Trồng mới 5 triệu hecta rừng Phần III. Kết luận Phần I : MỞ ĐẦU Việt Nam là một trong số mười nước trồng rừng nhiều nhất thế giới. Cùng với tài nguyên đất, nước, thực vật và động vật rừng là loại tài nguyên có khả năng tái sinh và có vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của con người. Có thể kể đến ngay nguồn cung cấp oxy cho khí quyển chính là từ rừng, nhân tố này đặc biệt quan trọng cho sự tồn tại của sinh vật. Kế đến, thực thể sinh học này là màng lọc không khí trong lành như: cản khói bụi, hạn chế nhiều loại vi khuẩn, siêu vi khuẩn gây hại cho người và các động vật. Rừng còn là nhân tố quan trọng trong điều hoà khí hậu quả đất hay chính là lá phổi xanh của trái đất. Đây còn là nguồn cung cấp nguyên liệu, hợp chất hoá học, lương thực, thực phẩm cho con người…Ngoài ra rừng có mối quan hệ mật thiết với đất, tham gia vào các quá trình hình thành phát triển đất, ngược lại đất là cơ sở duy trì sự tồn tại và phat triển của rừng. Hệ thống đất- rừng đảm nhiệm chức năng quan trọng là yếu tố tối cần thiết cho sự sống con người và các động vật khác. Với nhiều vai trò quan trọng như vậy, nhưng hiện nay cùng với quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, một số lượng đất rừng đã bị chuyển đổi mục đích sử dụng, nghiêm trọng hơn là việc khai thác quá mức dẫn đến những hậu quả khó lường. Từ đó có thể thấy trồng rừng là một quyết sách cấp thiết của chính phủ, và nhiều dự án, chương trình hành động đã được đưa ra. Tuy nhiên những biện pháp ấy đã dược cụ thẻ hoá bằng hành động như thế nào? Đã có ý nghĩa thiết thực gì để làm tăng diện tích rừng của Việt NamKhông đặt câu hỏi trong văn viết ? Trong bài tiểu luận nhỏ này, chúng tôi xin đưa ra một số nhận xét dưới góc độ khách quan về một trong số những dự án trên, cụ thể là:” Dự án trồng mới 5 triệu hecta rừng” được Quốc Hội thông qua tháng 08/1997.. Thêm vào đó là một số ý kiến đóng góp về việc bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng :RừngĐVĐ được tuy hơi dài Phần II: THÂN BÀI Hiện trạng Trong thời kỳ đầu của đất nước, rừng đã từng che phủ khắp lãnh thổ. Đến thời kỳ thuộc Pháp, rừng đã bị chặt để trồng caosu, chè, cà phê,… nhưng độ che phủ vẫn còn khoảng 14,29 triệu ha, chiếm 43,8% (1943) Theo Maurand (1945) diện tích đất rừng là 14.325.000 ha, chiếm 48,3% tổng diện tích của cả nước (32.804.000 ha) ; năm 1975 diện tích rừng chỉ còn 9,5 triệu ha (chiếm 29% diện tích tự nhiên), năm 1985 còn 7,8 triệu ha (23,6%) đến năm 1989 chỉ còn 6, 5 triệu ha (19,7%) (Viện điều tra qui hoạch rừng Việt Nam, 1989). Hình: Bản đồ mô tả rừng che phủ ở Việt Nam qua các thời kỳ VN có nhiều loại rừng với nhiều loại thực vật và động vật quý hiếm và độc đáo mà các nước ôn đới khó có thể tìm thấy được: - Về thực vật, theo số liệu thống kê gần đây thì có khoảng 12.000 loài thực vật, nhưng chỉ có khoảng 10.500 loài đã được mô tả (Hộ, 1991- 1993), trong đó có khoảng 10% là loài đặc hữu; 800 loài rêu; 600 loài nấm... Khoảng 2.300 loài cây có mạch đã được dùng làm lương thực, thực phẩm, làm thức ăn cho gia súc. - Về động vật cũng rất đa dạng, ngoài các loài động vật đặc hữu Việt Nam còn có những loài mang tính chất tổng hợp của khu hệ động vật miền nam Trung Hoa, Ấn Ðộ, Mã Lai, Miến Ðiện. Hiện tại đã thống kê được khoảng 774 loài chim, 273 loài thú, 180 loài bò sát, 80 loài lưỡng cư, 475 loài cá nước ngọt và 1.650 loài cá ở rừng ngập mặn và cá biểnKhông sử dụng nguyên bản tài liệu như thế này . * Sự tàn phá rừng ở Việt Nam Năm 1945 diện tích rừng ở Việt Nam là 14 triệu ha đến hiện nay chỉ còn lại khoảng 6,5 triệu ha, như vậy trung bình mỗi năm rừng Việt Nam bị thu hẹp từ 160 - 200 ngàn ha. Nguồn tài nguyên động vật đa dạng của rừng Việt Nam cũng bị giảm sút nghiêm trọng Trong những năm gần đây, do lợi ích trước mắt của nguồn lợi thủy hải sản, dẫn đến sự tàn phá các rừng ngập mặn để lấy chất đốt và làm vuông nuôi các loài thủy hải sản có giá trị kinh tế ; điều này xảy ra nghiêm trọng ở vùng đồng bằng sông Cửu long, sông Hồng và một số các tỉnh ven biển và hậu quả của nó là phá vở sự cân bằng hệ sinh thái rừng ngập mặn, làm mất đi nơi sinh sản của một số loài tôm cá nước ngọt và biển, đồng thời gây nên hiện tượng xói mòn bờ biển do sóng và do gió. Dựa vào mục đích sử dụng, đất rừng ở Việt Nam được chia thành 3 loại chính: Rừng sản xuất chiếm 52% tổng diện tích đất lâm nghiệp Rừng phòng hộ chiếm 38% tổng diện tích đât lâm nghiệp; Rừng đặc dụng (khu bảo vệ) chiếm 10% tổng diện tích đất lâm nghiệp Tính đến năm 2005, cùng với sự ưu tiên của chính phủ và sự giúp đỡ của quốc tế, tổng số 128 khu bảo vệ với tổng diện tích 2.395.200 ha được thành lập (con số này không bao gồm khu bảo vệ biển và khu đất ngập nước). . Đất lâm nghiệp Rừng phòng hộ Rừng đặc dụng Rừng sản xuất Vườn quốc gia Khu BTTN KBV cảnh quan Các loại khác của KBV RAMSAR Proposed Marine PAs Proposed Wetland PAs Phân loại đất lâm nghiệp và khu bảo vệ ở Việt Nam (theo tác giả Phan Thị Thúy- bài giảng sinh thái nhân văn) Nguyên nhân a) Nguyên nhân khách quan. - áp lực về dân số ở các vùng có rừng tăng nhanh do tăng cơ học, di cư tự do từ nơi khác, đòi hỏi cao về đất ở và đất canh tác - Do cơ chế thị trường, giá cả một số mặt hàng nông, lâm sản tăng cao, nhiều công trình xây dựng, đường xá và cơ sở hạ tầng khác được xây dựng gây áp lực lớn đối với rừng và đất lâm nghiệp Tình hình thời tiết diễn biễn ngày càng phức tạp, khô hạn kéo dài, bão lũ xảy ra thường xuyên gây thiệt hại không nhỏ tới tài nguyên rừng. Diện tích rừng khoanh nuôi phục hồi và rừng trồng tăng lên, dẫn đến nguy cơ xảy ra cháy rừng và sinh vật hại rừng cao hơn. b) Nguyên nhân chủ quan. Người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa chưa nhận thức đầy đủ tính cấp thiết của việc bảo vệ và phát triển rừng các ngành, các cấp chính quyền, đặc biệt là cấp xã nhận thức chưa đầy đủ, tổ chức thực hiện thiếu nghiêm túc do lợi ích cục bộ, đã làm ngơ, thậm chí có biểu hiện tiếp tay cho các hành vi phá rừng, khai thác, tiêu thụ lâm sản, sang nhượng đất đai trái phép, nhưng không bị xử lý nghiêm túc có biểu hiện thỏa mãn với thành tích, không duy trì hoạt động thường xuyên, do vậy tình trạng phá rừng và các hành vi vi phạm pháp luật tiếp tục tái xuất hiện. chủ rừng là các lâm trường quốc doanh, Ban quản lý rừng phòng hộ và rừng đặc dụng không đủ năng lực để quản lý, bảo vệ diện tích rừng được giao.. thiếu trách nhiệm, thông đồng, tiếp tay cho hành vi phá rừng cơ chế chính sách chậm đổi mới chưa tạo động lực thu hút các nguồn lực cho bảo vệ rừng. Thiếu sự đồng bộ, gắn kết trong tổ chức thực hiện các chương trình, dự án (chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo; các chương trình 135; 132 và 134; 120; 661 Chưa huy động được các lực lượng của xã hội cho bảo vệ rừng. Phối hợp giữa các lực lượng Công an, Quân đội, Kiểm lâm ở nhiều địa phương chưa thật sự có hiệu quả, còn mang tính hình thức, nhiều tụ điểm phá rừng trái phép chưa có phương án giải quyết của liên ngành. Việc xử lý các vi phạm chưa kịp thời, thiếu kiên quyết lực lượng kiểm lâm mỏng, địa vị pháp lý chưa rõ ràng, trang thiết bị, phương tiện thiếu thốn, lạc hậu cơ sở vật chất cho công tác bảo vệ rừng hết sức khó khănPhần này cũng tạm được. Tuy cũng copy nhưng sử dụng hợp lý 3.Giải pháp 3.1.Đề xuất của cá nhân 3.1.1.Một số đặc điểm của rừng. - Rừng cung cấp nguyên liệu cho con người làm nhà, nhiên liệu và rất nhiều sản phẩm làm từ gỗ, làm sạch không khí nhờ việc hấp thụ khí cacbonic và nhả khí oxi vào không khí, là nhà của các động vật hoang dã, rừng có vai trò giữ nước, vai trò giải trí. - Rừng là cây lâu năm, ngoài giá trị thực là gỗ và các nguyên liệu khác rừng còn có tính giá trị là tính bảo tồn của chúng. - Không giống như cây hang năm việc quyết định thu hoạch và trồng do những cây này có tính thời vụ của nó, thì việc quyết định khi nào khai thác rừng lại là vấn đề phức tạp, việc quản lí rừng bằng cách áp dụng các biện pháp kinh tế và các kiến thức sinh thái học giúp cho việc đưa ra các quyết định hiệu quả nhất. - Thời gian là đầu vào quan trọng của rừng. - Sản phẩm gỗ của rừng cũng là vốn, chúng có thể thu hoạch năm nay hoặc những năm tương lai. - Gía trị phúc lợi của rừng còn cao hơn nhiều giá trị gỗ mà rừng mang lạiViết một bài luận không nên viết kiểu này . 3.1.2.Một số vấn đề về quản lí khai thác rừngSố liệu trong bảng và biểu đồ cũng được nhưng lý luận quá sơ sài Tuổi cây Sản lượng gỗ(m3) Sản lượng gỗ tb năm(m3) Tăng trưởng(m3) 10 694 69.4 20 1912 95.6 1218 30 3558 118.6 1646 40 5536 138.4 1978 50 7750 155.0 2214 60 10104 168.4 2354 70 12502 178.6 2398 80 14848 185.6 2346 90 17046 189.4 2198 100 19000 190.0 1954 110 20614 187.4 1614 120 21792 181.6 1178 130 22438 172.6 646 135 22514 166.770 76 a.Quản lý hiệu quả rừng. Thuộc tính đặc biệt của tài nguyên rừng(gỗ) là ngoài những đặc điểm thông thường và hàng hóa thị trường nó còn có thuộc tính đặc biệt là hàng hóa vốn, nghĩa là khi chúng ta không khai thác thì cây tăng trưởng và làm tăng vốn. Bởi vậy mỗi năm, nhà quản lý thường phải quyết định khi nào thu hoạch khi nào trồng rừng trong thời gian trồng rừng có thể mất tới 25 năm hoặc hơn. Để xem xét sự tăng trưởng sinh học ta có thể xem đồ thị trên. Nếu ta dựa vào sản lượng trung bình năm thì sản phẩm cực đại vào năm 100, còn nếu dựa vào mức tăng trưởng sản phẩm gỗ thì mức tăng cực đại sẽ sớm hơn là vào năm thứ 70. Vậy nếu chỉ dựa vào 2 con số này để lựa chọn thì rõ ràng chúng ta sẽ dựa vào giá trị tăng trưởng cực đại là năm 70 để khai thác. b.Kinh tế khai thác rừng. Tuy nhiên nhà kinh tế quyết định khai thác không chỉ dựa vào tăng trưởng sinh học mà còn phải tính toán chi phí khai thác, chi phí trồng rừng và lợi ích đem lại từ khai thác gỗ là bao nhiêu ? Bảng Suất chiết khấu r=0 Suất chiết khấu r=2% Năm Sản lượng Giá trị sảnlượng (tr đ) Chi phí (tr đ) Lợi ích ròng (tr đ) Gía trị sản lượng (tr đ) Chi phí (tr đ) Lợi ích ròng (tr đ) 10 694 694 1208.2 -514.2 569 1171 -601 20 1912 1912 1573.6 338.4 1287 1386 -99 30 3558 3558 2067.4 1490.6 1964 1589 375 40 5536 5536 2660.8 2875.2 2507 1752 755 50 7750 7750 3325.0 4425.0 2879 1864 1016 60 10104 10104 4031.2 6078.8 3080 1924 1156 70 12502 12502 4750.6 7751.4 3126 1938 1188 80 14848 14848 5454.4 9393.6 3045 1914 1132 90 17046 17046 6113.8 10932.2 2868 1860 1008 100 1900 1900 6700.0 12300.0 2623 1787 836 110 20614 20614 7184.2 13429.8 2334 1700 634 120 21792 21792 7537.6 14254.4 2024 1607 417 130 22438 22438 7731.4 14706.6 1710 1513 197 135 22514 22514 7754.2 14759.8 1554 1466 88 Nếu ko tính suất chiếu khấu thì càng để tuổi cây dài thì lợi ích ròng càng cao. Tuy nhiên, trong thực tế tính toán chúng ta phải dựa vào suất chiết khấu để hiện tại hóa các giá trị. Dựa vào giá trị hiện tại cực đại của gỗ khi tính suất chiết khấu 2% thì nên khai thác vào năm 70. Qua đây cho thấy : Chỉ với suất chiết khấu rất nhỏ 2% cũng rút ngắn thời gian khai thác xuống một nửa. Nếu suất chiết khấu càng cao khai thác rừng càng sớm. Về thời điểm khai thác thì dựa trên tăng trưởng sinh học về mặt lượng cũng cho kết quả giống như các tính toán kinh tế. điều này liệu có thể cho ta quyết định thời điểm thu hoạch chỉ cần dựa trên tính toán giá trị cực đại của tăng trưởng sinh học (lượng) bất kể chi phí thu hoạch và chi phí trồng lại rừng bằng bao nhiêu ? Chi phí trồng rừng được tính toán trong mô hình này rất quan trọng bởi nếu chi phí trồng quá lớn, đến mức lớn hơn cả giá trị của gỗ làm cho lợi ích ròng luôn âm, thì việc trồng loại cây này không thích hợp cho mục đích thương mại Các biện pháp quản lí hiệu quả tài nguyên rừng. Vấn đề quyền sở hữu: Mô hình trên cho thấy nếu nỗ lực khai thác ở tốc độ tăng trưởng cực đại(Emsy) thì rõ ràng chưa chắc có lợi nhuận tối đa, mà thực tế để có được lợi nhuận tối đa thì khai thác thường ở bên trái Emsy. Tuy nhiên sự khai thác tài nguyên muốn đạt được lợi nhuận tối đa thì nhất thiết quyền sở hữu tài nguyên phải được xác định, còn khi quyền sở hữu tài nguyên không được xác định, con người sẽ khai thác tài nguyên đến khi doanh thu bằng chi phí(TR=TC) tức là sự nỗ lực khai thác đạt tới Eoa. Nếu cố gắng khai thác hơn nữa thì người khai thác bị lỗ, π <0. Điểm OA(Opening accessement) gọi là điểm khai thác “tài nguyên vô chủ”. Việc sở hữu rừng tư nhân có thể khuyên khích chủ sở hữu quay vòng nhanh và tăng cường đầu tư để đạt được năng suất gỗ cao và do vậy chu kì khai thác nhanh hơn; tuy nhiên đôi khi hộ không lựa chọn tối đa hóa lợi nhuận bởi quy mô rừng quá nhỏ. Rừng thuộc sở hữa công dường như hướng tới quản lí hiệu quả hơn với mục tiêu quản lí đa sử dụng thông qua việc sử dụng các phân tích kinh tế rõ rằng hơn. Thuế. Quota khai thác. Khuyến khích xuất khẩu gỗ chế biến. Giao đất rừng cho hộ. Trợ giá cho trồng mới Năng suất bền vững là năng suất (theo tác giả Nguyễn Văn Song, giáo trình kinh tế tài nguyên môi trường, năm 2006) c. Một số đề xuất của cá nhân nhóm thực hiện trong công tác trồng, khai thác và bảo vệ rừng: - Với những phân tích như trên, chúng tôi thấy rằng việc khai thác cây rừng khi chúng già là điều cần thiết nó vừa mang lại hiệu quả kinh tế vùa đảm bảo yếu tố sinh thái, tạo không gian cho những cây non. Ngoài ra chúng tôi còn thấy rằng với những dẫn chứng kinh tế như trên thì việc giao đất giao rừng cho các tổ chức cá nhân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng là điều mà chúng ta nên làm sâu rộng. - Tuy nhiên làm thế nào để vai trò của nhà nước vẫn không bị lu mờ khi thực hiện chính sách giao đất giao rừng cho người dân? Vì theo suy nghĩ của chúng tôi, chúng tôi tạm chia rừng mà nhà nước giao cho người dân thành 2 loại + Loại thứ nhất là loại mà trên đất đã sẵn có rừng, nhà nước giao cho người dân để họ quản lí, bảo vệ và khai thác rừng, như vậy rừng vẫn được khai thác hợp lí kết hợp với trồng mới,mà nhà nước và người dân đều có lợi, Người dân có thể sống được từ rừng có thể khai thác gỗ một cách hợp pháp, thay vì họ trở thành những lâm tặc, họ được hưởng lợi từ chính rừng núi của họ Nhà nước thì không phải chi trả một lượng tiền lớn cho lực lượng kiểm lâm để bảo vệ rừng mà còn có thể thu được tiền từ thuế tài nguyên đất và rừng. Tuy nhiên việc sở hữu tư nhân đối với rừng ở Việt Nam theo chúng tôi sẽ có những điều đáng lưu ý sau đây: Người dân vì lòng tham có thể sẽ khai thác hết trước khi trồng rừng, vì vậy nhà nước nên kí hợp đồng giao đất giao rừng dài hạn cho người dân. Khi lợi ích của họ đã gắn lâu bền với rừng thì chắc chắn họ sẽ có cách ứng xử với rừng một cách đúng đắn. Hơn nữa khi người dân đã rằng buộc với nhà nước bằng hợp đồng thì nếu khung hình phạt pháp lí của chúng ta cao và nghiêm khắc thì có thể phần nào sẽ hạn chế được tình trạng phá rừng, nhà nước có thể nâng cao quan điểm rừng là tài sản quốc gia và khi nhà nước đã giao quyền sở hữu đất rừng và rừng cho người dân thì người dân có quyền khai thác và trồng rừng theo quy định của nhà nước khi vi phạm quy định thì có thể xử phạt theo pháp luật liên quan đến tài sản quốc gia. Thứ 2 là có thể người dân sẽ không tuân thủ những quy định về kĩ thuật trồng rừng cũng như chăm sóc rừng, trồng không đúng loại cây hay khai thác không đúng thời điểm khi cây rừng còn non, không đảm bảo hiệu quả về mặt sinh học cũng như sinh thái, điều này nếu nhà nước không thanh tra giám sát chặt chẽ thì cũng khó có thể phát hiện và xử lí kịp thời và chỉ biết khi sự việc đã rồi, điều này cũng có thể gây hậu quả đáng tiếc, vì vậy theo quan điểm cá nhân thì nhà nước nên có những đoàn thanh tra thường xuyên liên ngành ngay tại cơ sở (kết hợp giữa bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn với lực lượng kiểm lâm và chính quyền địa phươngPhần thứ nhất này nhà nước đã có chính sách khoán rừng 01 và 02 rồi ) Hơn nữa nhà nước cũng cần hỗ trợ người dân về vốn kĩ thuật, ví dụ như là cung cấp giống và phân bón chất lượng cao,giá ưu đãi + Thứ 2 là đối với đất chưa có rừng, thì đây là điểm mà cần nhà nước đầu tư hơn nhiều so với loại trên. Vì từ đất trống để có thể tạo thành rừng thì cần có một thời gian tương đối dài, mà thường là 5 năm đối với rừng sản xuất và khoảng 10 năm đối với rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, thời gian để khai thác được còn có thể lâu hơn, vì vậy nên có thể nói thời gian là yếu tố đầu vào quan trọng nhất trong công tác trồng rừng, đây cũng là trở ngại lớn nhất đối với chúng ta khi giao đất cho người dân cũng như quyết định đầu tư vốn và kĩ thuật phải dài hạn. Hiện nay, trong khoảng thời gian từ khi trồng rừng đến khi thu hoạch người dân gần như không thu được gì từ rừng (có thể chỉ thu được rất ít như củi hay một số sản phẩm khác), ngoài số tiền ít ỏi mà nhà nước hỗ trợ thì cuộc sống của người dân trong thời gian này là hết sức khó khăn. Làm thế nào để thu hút người dân tham gia vào trồng rừng thì điều quan trọng là nhà nước phải giải quyết được những khó khăn này, theo quan điểm cá nhân chúng tôi xin được đề xuất một vài ý kiến như sau: 1.Các cán bộ kĩ thuật của các sở và phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn nên nghiên cứu và khảo sát các cây trồng ngắn hạn để giúp người dân lấy ngắn nuôi dài, có thể ở các vùng núi thì có thể khảo sát nghiên cứu để đưa các cây trồng có giá trị kinh tế cao vào trồng xen như cây thuốc ( cây ngải cứu, hương nhu, sả, nghệ…) phục vụ cho việc chiết suất các loại thuốc có nguồn gốc thảo dược, cây làm cành (phong lan, cây sanh……)nếu sinh kế của người dân được đảm bảo thì chắc chắn việc giao đât giao rừng cho người dân sẽ hiệu quả, việc trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc sẽ được thành công. 2.Hơn nữa, những người dân nhận đất, nhận rừng, hầu hết là ở vùng sâu vùng xa, trình độ học vấn và các kiến thức khoa học còn rất hạn chế, vì vậy nhà nước cũng như các cơ quan của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn ở các địa phương cần có sự giúp đỡ hỗ trợ về kĩ thuật, có thể cung cấp cây giống chất lượng cao miễn phí, có thể hướng dẫn bà con các tiến bộ khoa học kĩ thuật để giúp tăng nhanh năng suât và rút ngắn thời gian thu hoạch cũng như ít tốn sức lao động nhất. Đấy là những ý kiến về việc trồng rừng, còn công tác thu hoạch rừng thì chúng tôi cũng xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến như sau: Theo nguyên tắc thì việc khai thác đối với rừng tự nhiên là chặt tỉa những cây đã đên độ tuổi khai thác, nhưng thực sự những việc này là hết sức khó khăn vì khó có thể nào mà huy động được các phương tiện kĩ thuật vào trong rừng sâu đi qua các cây khác để chặt hạ 1 cây. Vì vậy nên hầu như khi nhà nước cho phép các lâm trường hay các tổ chức cá nhân khai thác rừng thì thường là dao cho 1 khoảnh rừng, và họ cũng sẽ khai thác hết những gì có thể khai thác được, thậm chí còn khai thác cả những vùng xung quanh. Có một vần đề đặt ra ở đây là làm thết nào để khai thác được các cây ở trong rừng sâu đến tuổi không làm ảnh hưởng đến những cây khác, theo tôi thì có thể dung các biện kĩ thuật như dùng máy bay trong khai thác các cây gỗ quí (pơ mu, sưa, lim, mun), có thể đưa ra mô hình như sau, có thể không khả thi trong thực tế nhưng chúng tôi vẫn muôn đề cập đến ở đay, có thể nó sẽ là những gợi ý cho những nhà cơ khí kĩ thuật, để họ sẽ có thể phát kiến ra những máy móc cho việc khia thác gỗ trong tương lai: đó là có thể sẽ dung máy cưa cưa dưới gốc, còn trên ngọn cây từ phần thân cây trở lên có thể dung máy bay đẻ kéo lên, và đưa về nơi sản xuât gỗ, cùng một lúc chúng ta có thể khai thác nhiều cây ( khoảng hơn chục cây) bằng cách như thế này. 3.Hoặc như đối với rừng sản xuất thì chỉ trồng một loại cây nhất định đối