Ngân sách nhà nước, hay Ngân sách chính phủ, là một thành phần trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Tuy sự ra đời của ngân sách Nhà nước đã khá lâu, song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu. Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia. Luật Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
30 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11592 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ngân sách Nhà nước và hệ thống ngân sách Nhà nước Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Nhà nước ra đời trong cuộc đấu tranh của xã hội có giai cấp, nó là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp, Nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng để thực hiện các chức năng va nhiệm vụ về nhiều mặt như quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức năng chấn áp và các nhiệm vụ xã hội.
Để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình Nhà nước cần phải có nguồn lực tài chính – ngân sách Nhà nước, đó là cơ sở vật chất cho Nhà nước tồn tại và hoạt động.
Ngày nay kinh tế thị trường càng phát triển thì vị trí và vai trò của tài chính nhà nước ngày càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, xây dựng nền tài chính tự chủ vững mạnh là yêu cầu cơ bản cấp bách trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta, trong đó ngân sách Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc gia.
Ngân sách nhà nước là nơi tập trung quỹ tiền tệ lớn nhất trong nền kinh tế, có mối quan hệ chặt chẽ với tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân cùng mối quan hệ khăng khít với tất cả các khâu của hệ thống tài chính. Ngân sách nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo cho các chi tiêu của Nhà nước, và là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo cho sự ổn định phát triển đồng đều giữa các nền kinh tế, và đảm bảo thu nhập cho người dân.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng của Ngân sách nhà nước, nhóm 12 – Lớp ĐH Kế Toán K08A đã thảo luận và cùng phân tích về Ngân sách nhà nước và tình hình hoạt động của hệ thống Ngân sách nhà nước Việt Nam hiện nay..
NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước, hay Ngân sách chính phủ, là một thành phần trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Tuy sự ra đời của ngân sách Nhà nước đã khá lâu, song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu. Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia. Luật Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
1.2. Bản chất cuả Ngân sách nhà nước Việt nam
Ngân sách nhà nước là mối quan hệ kinh tế-xã hội giữa Nhà nước với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế, thông qua việc tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước.
Từ khái niệm bản chất trên, ta có thể rút ra các đặc điểm sau:
Thứ nhất: Hoạt động thu-chi ngân sách Nhà nước và gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội của Nhà nước.
Thứ hai: Mọi hoạt động thu-chi của Ngân sách nhà nước đều phải dựa trên cơ sở pháp luật của Nhà nước. Ví dụ như: pháp lệnh, chế độ, quy định về huy động vào ngân sách và chi tiêu Ngân sách nhà nước.
Thứ ba: Quỹ Ngân sách nhà nước được hình thành thông qua quá trình phân phối lại dưới nhiều hình thức, trong đó thuế là hình thức chủ yếu và phổ biến nhất.
Thứ tư: Đằng sau các hoạt động thu-chi Ngân sách nhà nước là các quan hệ kinh tế mà trước hết là quan hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể kinh tế - xã hội.
1.3. Vai trò của Ngân sách nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội của các quốc gia
Trong hệ thống tài chính thống nhất, Ngân sách nhà nước là khâu tài chính tập trung giữ vị trí chủ đạo. Ngân sách nhà nước cũng là khâu tài chính được hình thành sớm nhất, nó ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ thống quản lý nhà nước và sự phát triển của hàng hoá, tiền tệ.
Trong cơ chế thị trường, những quan hệ kinh tế thuộc nội dung Ngân sách nhà nước chỉ có thể phát sinh, phát triển trên cơ sở vận động không ngừng của các cơ quan tiền tệ trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Tính chất, quy mô, mức đọ và hiệu quả của quá trình hoạt động này là tiền đề vật chất quan trọng nhất của Ngân sách nhà nước. Sẽ không có một Ngân sách lành mạnh nếu như sự vận động của các quan hệ tiền tệ trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá bị ách tắc hoặc bị biến dạng theo xu thế không có lợi, làm tổn thương đến sự vận động của hàng hoá. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng: trong mối quan hệ giữa Ngân sách nhà nước với sự vận động của các đơn vị tiền tệ nảy sinh trong lĩnh vực sản xuất, lưu thông hàng hoá, các quan hệ tiền tệ thuộc nội dung Ngân sách nhà nước hoàn toàn không mang tính thụ động mà có ảnh hưởng tích cực trở lại. Sự ảnh hưởng trở lại đó hoàn toàn phụ thuộc vào việc nhà nước sử dụng Ngân sách làm công cụ quản lý kinh tế - xã hội như thế nào. Trong cơ chế thị trường, Ngân sách nhà nước được nhà nước sử dụng làm công cụ quan trọng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế - xã hội. Do vậy có thể nói cùng với việc đảm bảo chỉ tiêu của nhà nước bằng việc huy động các nguồn tài chính trên phạm vi rộng lớn trong và ngoài nước.
Vai trò tất yếu của Ngân sách nhà nước ở mọi thời đại và trong mọi mô hình kinh tế là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội.
a. Điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế
Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững.
Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
b. Giải quyết các vấn đề xã hội
Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào bão lụt.
c. Góp phần ổn định thị trường, chống lạm phát, bình ổn giá cả thị trường hàng hoá
Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng những mặt hàng mang tính chất chiến lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia. Thị trường vốn sức lao động: thông qua phát hành trái phiếu và chi tiêu của chính phủ. Kiềm chế lạm phát: cùng với ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ thích hợp Ngân sách nhà nước góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ.
Chương 2: CÁC HOẠT ĐỘNG CHÍNH CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1. Thu và chi Ngân sách nhà nước:
a. Thu Ngân sách nhà nước
Sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia thường được quan niệm là sự tăng thêm ( hay gia tăng ) về qui mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Một trong các đại lượng biểu thị sự tăng trưởng kinh tế đó là tổng sản phẩm trong nước hay tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của chính phủ như nước ta. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích sự tăng trưởng kinh tế, thông qua việc sử dụng công cụ ngân sách của mình. Công cụ ngân sách nhà nước chủ yếu là thu và chi tiêu của nhà nước. Nguồn thu quan trọng và chủ yếu là thuế, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thu ngân sách nhà nước. Ngoài thuế, Nhà nước còn sử dụng các hình thức khác để huy động vốn vào ngân sách nhà nước như : thu từ bán tài sản của Nhà nước trong quá trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thu từ bán tài sản của nhà nước đã cho các chủ thể trong xã hội thuê trước đây, thu từ sử dụng vốn thuộc nguồn của ngân sách nhà nước, thu từ bán lại các cơ sở kinh tế của Nhà nước cho các thành phần kinh tế, thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên thiên nhiên, thu lệ phí và phí. thu do nhận viện trợ và vay nợ của chính phủ. Chi ngân sách nhà nước gồm : chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển kinh tế và chi trả nợ viện trợ. Mỗi hình thức thu ngân sách nhà nước đều có vị trí quan trọng trong việc đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia. hay sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội.
Đứng về phương diện pháp lý, thu Ngân sách nhà nước bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Về mặt bản chất, thu Ngân sách nhà nước là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của mình. Thu Ngân sách nhà nước chỉ bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách mà không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp. Theo Luật Ngân sách nhà nước hiện hành, nội dung các khoản thu Ngân sách nhà nước bao gồm:
Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật;
Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước:
Lợi tức từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế;
Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế;
Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi).
Thu từ hoạt động sự nghiệp;
Thu hồi quỹ dự trữ Nhà nước;
Tiền sử dụng đất; thu từ hoa lợi công sản và đất công ích;
Các khoản huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở;
Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước;
Các khoản di sản Nhà nước được hưởng;
Thu kết dư ngân sách năm trước;
Tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước tại các đơn vị hành chính, sự nghiệp;
Các khoản tiền phạt, tịch thu;
Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật;
Các khoản viện trợ không hoàn lại bằng tiền, bằng hiện vật của Chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài;
Các khoản vay trong nước, vay nước ngoài của Chính phủ để bù đắp bội chi và khoản huy động vốn đầu tư trong nước của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là tỉnh) quy định tại khoản 3 Điều 8 của Luật Ngân sách Nhà nước được đưa vào cân đối ngân sách.
Cần lưu ý là không tính vào thu Ngân sách nhà nước các khoản thu mang tính chất hoàn trả như vay nợ và viện trợ có hoàn lại. Vì thế, các văn bản hướng dẫn Luật Ngân sách nhà nước (Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ và Thông tư 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính) chỉ tính vào thu Ngân sách nhà nước các khoản viện trợ không hoàn lại; còn các khoản viện trợ có hoàn lại thực chất là các khoản vay ưu đãi không được tính vào thu Ngân sách nhà nước .
Căn cứ vào tính chất sử dụng của các khoản thu, thu ngân sách nhà nước chia làm 2 loại : thu trong cân đối ngân sách và thu để bù đắp thâm hụt ngân sách.
* Thu trong cân đối ngân sách
- Thuế: đây là hình thức cổ truyền được sử dụng từ trước đến nay để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tỉ lệ đóng góp của thuế vào ngân sách nhà nước luôn ở mức cao. Chẳng hạn như các nước ASEAN có tỉ lệ thuế trong thu thường xuyên của ngân sách rất cao.
Ở Việt Nam, nguồn thu ngân sách nhà nước chủ yếu là nguồn thu từ thuế. Mặt khác nếu so sánh tỉ lệ thuế động viên vào ngân sách Nhà nước từ GDP của Việt Nam so với những nước thành viên ASEAN. tỉ lệ này ở nước ta cũng cao nhất.
Điều đó cho thấy, Việt Nam khó huy động được nguồn thu ở một mức cao hơn nữa từ GDP so với hiện nay. Do đó, một trong những nội dung cải cách hệ thống chính sách thuế bước 2 là tiến hành điều chỉnh hợp lý cơ cấu các sắc thuế trong kết cấu thu nhằm bảo đảm nguồn thu ngân sách nhà nước theo hướng giảm thuế suất, tăng thu theo diện rộng. Đồng thời, việc cải cách thuế phải thực hiện được nhiệm vụ khuyến khích. thúc đẩy sản xuất phát triển. Với hệ thống thuế tối ưu, nguồn thu thuế sẽ tăng lên mà không cần đòi hỏi phải tăng thuế suất. Nhờ thế, Nhà nước sẽ có được nguồn thu ổn định ở mức cao, dễ dàng chủ động thực hiện các chức năng quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
- Phí và lệ phí : tuy chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng thu ngân sách nhà nước, song vẫn được huy động và khai thác nguồn thu đưa vào ngân sách nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng của Nhà nước.
- Thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước: khoản thu này phản ánh hoạt động kinh tế đa dạng của Nhà nước. Trong giai đoạn trước mắt, Nhà nước có thể sử dụng các khoản thu này để xây dựng các công trình công cộng y tế, giáo dục, đường sá, nhà ở . Với chủ trương bán nhà thuộc sở hữu nhà nước cho các đối tượng đã thuê. số thu về hàng năm khá lớn (1995 : 200 tỉ đồng; 1996 : 347 tỉ đồng; 1997 : 789 tỉ đồng; 1997 : 789 tỉ đồng; dự toán 1998 là 570 tỉ đồng). Cùng với tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nà nước, số vốn thu hồi vào ngân sách sẽ tăng. Đồng thời, khi các công ty cổ phần đi vào hoạt động và làm ăn có hiệu quả, Nhà nước còn thu được lãi tức cổ phần được chia. Như vậy, tiền thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước sẽ là phần đóng góp quan trọng trong giai đoạn trước mắt để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình.
- Viện trợ không hoàn lại : bao gồm môt phần vốn ODA (chiếm khoản 25%) và toàn bộ khoản viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ (NGO ) để phục vụ cho đầu tư cộng cộng ; giáo dục, y tế, giao thông .. Trong tương lai. khoản viện trợ không hoàn lại này có xu hướng giảm dần. Do đó, Nhà nước cần tranh thủ tối đa nguồn vốn này bằng việc cải tiến các khâu điều tra và quản lý để giải ngân nhanh hơn các chương trình ODA. và cần quan tâm nhiều hơn đến việc quản lý, sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả.
Như vậy toàn bộ khoản thu trên sẽ là khoản ổn định và thường xuyên của ngân sách nhà nước. Nhà nước sử dụng nguồn thu này để chi cho những hoạt động quản lý thường xuyên và chi trả nợ của Nhà nước. Khoản chi này tuy không trực tiếp làm tăng thêm giá trị tổng sản phẩm, nhưng rất cần thiết cho sự phát triển xã hội. Theo Luật Ngân Sách Nhà nước qui định là toàn bộ khoản thu trong cân đối này sẽ tài trợ cho các loại chi nói trên, phần còn lại sẽ được dùng cho chi đầu tư phát triển kinh tế. Đây chính là mức tiết kiệm của ngân sách nhà nước. Nếu số thu này không đủ cho chi thường xuyên thì cương quyết cắt giảm chi. Do đó, có thể nói thông qua nguồn thu này, Nhà nước đã tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển tốt nhất.
* Thu để bù đắp thâm hụt ngân sách
- Các khoản vay nợ của Chính phủ gồm có vay trong nước và vay ngoài nước. Theo Luật Ngân Sách của nước ta ban hành năm 1996, qui định là Nhà nước sẽ dùng khoản tiết kiệm của ngân sách để chi cho đầu tư phát triển kinh tế. nếu không đủ. Nhà nước sẽ đi vay để bù đắp thâm hụt ngân sách. không sử dụng khoản vay nợ cho chi thường xuyên. Vay của Nhà nước bao gồm vay trong nước và vay nước ngoài.Vay trong nước được thực hiện bởi việc phát hành công trái dưới các hình thức : tín phiếu kho bạc. trái phiếu kho bạc. và trái phiếu công trình. Vay nợ nước ngoài được thực hiện dưới các hình thức như : hiệp ước hay hiệp định vay mượn giữa hai Chính phủ. hiệp định vay mượn giữa Chính phủ với các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới hoặc phát hành trái phiếu ra nước ngoài. Vay nợ nước ngoài có 2 loại : vay ưu đãi với lãi suất rất thấp. thời gian hoàn vốn khá dài ; vay thương mại với lãi suất cao hơn. thời gian hoàn vốn cũng dài. Đối với khoản vay nợ nước ngoài thì nước vay nợ dễ gặp rủi ro do tỉ giá hối đoái tăng làm cho đồng tiền trong nước mất giá. gánh nặng nợ nần chồng chất. Vì vậy.cần phải tính đến hiệu quả kinh tế và hết sức thận trọng trong việc sử dụng nguồn vốn vay này. Đối với khoản vay trong nước. nếu Nhà nước vay quá nhiều. sẽ ảnh hưởng đến mức tiết kiệm và tích luỹ của các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. do đó đầu tư của các thành phần này cũng có thể giảm. Hơn
nữa, nếu Chính phủ vay trong nước nhiều. lãi suất có xu hướng gia tăng. giá cả hàng hoá tăng. lạm phát có nguy cơ xảy ra
- Phát hành tiền : trước năm 1992. để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước còn sử dụng hình thức này. Tuy nhiên. đối với tình trạng sản xuất yếu kém như nước ta trước đây. việc chọn giải pháp này thường làm cho nền kinh tế không ổn định. do lạm phát có xu hướng gia tăng. Vì thế đối với nước ta từ năm 1993 đến nay không phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. Như vậy để đầu tư phát triển kinh tế, trong khi nguồn thu ngân sách trong cân đối không đáp ứng đủ, Nhà nước sử dụng biện pháp vay nợ hoặc phát hành tiền để bù đắp. Trong điều kiện hiện nay việc phát hành tiền bị hạn chế nhiều. Do đó. nếu nguồn vay được sử dụng có hiệu quả thì tổng sản phẩm quốc nội tăng đáng kể.Tuy nhiên để có thể thực hiện tốt chức năng mở đường và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng tham gia phát triển kinh tế. đồng thời để có thể kiểm soát được các mặt hoạt động của nền kinh tế. Nhà nước cần khống chế tỷ lệ vay nợ bù đắp thâm hụt ngân sách ở một mức nhất định nào đó. chẳng hạn mức khống chế hiện nay là dưới 3,5% GDP.
Toàn bộ khoản thu ngân sách nói trên đã tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội hay sự tăng trưởng kinh tế một cách gián tiếp hoặc trực tiếp. Tuy nhiên. việc huy động vốn vào ngân sách nhà nước chỉ nên huy động ở mức vừa phải, hợp lý để Nhà nước vẫn thực hiện được chức năng quản lý kinh tế xã hội. Đồng thời còn thực hiện vai trò động viên các thành phần kinh tế khác cùng tham gia phát triển sản xuất, đưa đất nước phát triển một cách vững chắc nhất.
2.2. Chi Ngân sách nhà nước.
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
Thực hiện chi ngân sách nhà nước chính là việc cung cấp các phương tiện tại chính cho các nhiệm vụ của nhà nước. Song việc cung cấp này có những đặc thù riêng, đó là:
Chi ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Chính phủ phải đảm nhận trước mỗi quốc gia. Mức độ, phạm vi chi tiêu ngân sách nhà nước phụ thuộc vào tính chất, nhiệm vụ của chính phủ trong mỗi thời kỳ.
Tính hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước được thể hiện ở tầm vĩ mô và mang tính toàn diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu quả về mặt chính trị và xã hội, ngoại giao. Chính vì vậy, trong công tác quản lý tài chính, một yêu cầu đặt ra là cần sử dụng tổng hợp các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng, đồng thời phải có quan điểm toàn diện và đánh giá tác dụng, ảnh hưởng của các khoản chi phí ở tầm vĩ mô.
Xét về mặt tính chất, phần lớn các khoản chi ngân sách nhà nước đều là các khoản cấp phát không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Chính vì vậy các nhà quản lý tài chính cần có sự phân tích, tính toán trên nhiều khía cạnh trước khi đưa ra các quyết định chi tiêu để tránh được những lãng phí không cần và nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách nhà nước.
Tuỳ theo yêu cầu của việc phân tích, đánh giá và qu