Tiểu luận Nghiên cứu chi tiêu công của quốc gia lafrasia

Quốc gia Lafrasia là một nước thuộc địa trước đây, đã dành được độc lập sau Chiến tranh thế giới II. Suốt thời kỳ thuộc địa, nước này có một bộ máy chính quyền tốt, cơ sở hạ tầng tương xứng, và hệ thống giáo dục công phát triển tốt. Tuy nhiên, suốt 30 năm chế độ độc tài quân sự, những thành tưu này đã bị phá huỹ. Hệ thống đã bị sụp đỗ: Bộ máy nhà nước thì cồng kềnh và không có hiệu quả, cơ sở hạ tầng thì xuống cấp do thiếu bảo trì, hệ thống giáo dục công ngày càng tệ hại tồn tại nhiều vấn đề. Một chính quyền dân chủ đã bị thay thế suốt thập kỷ qua và đang nỗ lực tái thiết cơ sở hạ tầng và tập trung lại những ưu thế của nhà nước Lafrasia. Lafrasia là một nước nhiệt đới. Khoảng 25 phần trăm đất nước là đồi núi, phần còn lại là rừng rậm và đồng bằng. Cây dừa được trồng ở cũng đồi núi. Lafrasia có khoảng 300 dặm bờ biển và một cảng nước sâu tốt. Các hòn đảo ngoài khơi gần thành phố ven biển của Bahia Linda thu hút một lượng đáng kể khách du lịch. Thủy điện là nguồn năng lượng chính trong nước, cùng với nhiên liệu gỗ; toàn bộ dầu và khí gas đều nhập khẩu

pdf24 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1699 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nghiên cứu chi tiêu công của quốc gia lafrasia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH KHOA SAU ĐẠI HỌC MOÂN TAØI CHÍNH COÂNG Case study: NGHIÊN CỨU CHI TIÊU CÔNG CỦA QUỐC GIA LAFRASIA GVHD: TS. NGUYỄN HỒNG THẮNG HVTH: NHÓM 1 Lớp: K16 – Ngaân haøng Ñeâm 2 TPHCM, tháng 1 năm 2008 PHẦN I: GIỚI THIỆU LỊCH SỬ VÀ ĐỊA LÝ Quốc gia Lafrasia là một nước thuộc địa trước đây, đã dành được độc lập sau Chiến tranh thế giới II. Suốt thời kỳ thuộc địa, nước này có một bộ máy chính quyền tốt, cơ sở hạ tầng tương xứng, và hệ thống giáo dục công phát triển tốt. Tuy nhiên, suốt 30 năm chế độ độc tài quân sự, những thành tưu này đã bị phá huỹ. Hệ thống đã bị sụp đỗ: Bộ máy nhà nước thì cồng kềnh và không có hiệu quả, cơ sở hạ tầng thì xuống cấp do thiếu bảo trì, hệ thống giáo dục công ngày càng tệ hại tồn tại nhiều vấn đề. Một chính quyền dân chủ đã bị thay thế suốt thập kỷ qua và đang nỗ lực tái thiết cơ sở hạ tầng và tập trung lại những ưu thế của nhà nước Lafrasia. Lafrasia là một nước nhiệt đới. Khoảng 25 phần trăm đất nước là đồi núi, phần còn lại là rừng rậm và đồng bằng. Cây dừa được trồng ở cũng đồi núi. Lafrasia có khoảng 300 dặm bờ biển và một cảng nước sâu tốt. Các hòn đảo ngoài khơi gần thành phố ven biển của Bahia Linda thu hút một lượng đáng kể khách du lịch. Thủy điện là nguồn năng lượng chính trong nước, cùng với nhiên liệu gỗ; toàn bộ dầu và khí gas đều nhập khẩu. DÂN SỐ Dân số Lafrasia là 40 triệu. 7 triệu người sống ở Thủ đô của Lafrasia, là thành phố lớn nhất trong năm tỉnh, với gần 40% dân số. 8 triệu người khác sống trong 10 thành phố nhỏ hơn. Phần còn lại sống ở nông thôn với mật độ dân số từ vài trăm đến vài ngàn người. Tỉnh miền núi có mật độ dân số thưa nhất, chỉ với 250.000 người phân bố trên 7000 dặm vuông. Khoảng 23 phần trăm dân số Lafrasia sống dưới mức nghèo khổ. Nhiều người vẫn sống ở vùng nông thôn, nhưng số người di cư lên các khu vực thành thị ngày càng tăng lên, họ sống trong nhưng căn nhà lụp xụp và thiếu ăn, lao động chân tay không có kỹ năng, thường tập trung trong những khu dân lao động tự do. CHỈ SỐ XÃ HỘI Lafrasia nằm trong những nước có thu nhập bình quân đầu người thấp dưới mức trung bình, nhưng một số chỉ số xã hội cho thấy không đáp ứng các nhu cầu cơ bản về y tế, giáo dục và các dịch vu khác. Bảng 1- 1 liệt kê các chỉ số xã hội của Lafrasia và một nhóm các quốc gia tương tự, những nước ở cùng khu vực và có cũng mức thu nhập. Bảng 1- 1. Các chỉ số x ã hội của La frasia và các nước tương đồng. 1988 – 89 Chỉ số Lafrasia Mức trung bình, các nước tương đồng GDP bình quân đầu người US$ 750 US$ 825 Tỷ lệ tử vong ở trẻ em 8.00% 4.50% Tỷ lệ tử vong ở người mẹ 3/1000 1.2/1000 Tỷ lệ trẻ từ 1- 3 tuổi đươc 5 tiêm chủng ngừa 58.00% 87.00% Tỷ lệ nhiểm HIV 10.00% 11.00% Tuổi tho trung bình 55.00% 59.00% Tỷ lệ trẻ đến trường tiểu học 92.00% 93.00% Tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học 40.00% 72.00% Tỷ lệ biết chữ ở người lớ n 27.00% 22.00% Tỷ lệ hộ có điện 35.00% 25.00% Tỷ lệ hộ có điện thoại 6.40% 9.20% AN NINH TRẬT TỰ Chính quyền trước sử dung quân đội để kiểm soát tình hình trong nước và kẻ thù ngoài nước. Ít nhất là một trong những nước láng giềng của Lafrasia, Andaria, có bản phác hoạ lãnh thỗ về phía tỉnh miền nam của Lafrasia bởi có một lượng lớn người dân tộc thiểu số người Andaria sống ớ đó. Tôn giáo và tình hình dân tộc là nguồn quan tâm gần đây. Dù nhà nước dân chủ, với hệ thống nhiều đảng phái, một số đảng phái nhỏ sẽ không thích chống đối. Chính phủ vẫn thích duy trì một lực lượng quân đội mạnh như là một hàng rào phòng thủ chống lại cả Andaria và các thế lực đe doạ trong nước. ĐIỀU KIỆN VĨ MÔ Đồng tiền của Lafrasia là đồng peso, đã được tái hình thành năm 1985; giá trị của đồng peso mới (bằng 100 peso cũ) đã được ấn định 3 peso 1 đô la. Tỷ giá hối đoái rớt xuống nhanh chóng là kết quả của lạm phát kéo dài, năm 1989 tỷ giá hối đoái là 7.5 peso 1 USD. Thu nhập bình quân đầu người 1989 là khoảng 750 USD, tương đương 5,625 peso. GDP thực tăng trung bình từ 3 đến 4 % 1 năm trong gần suốt thập niên 80, nhưng tỷ lệ sinh cao, đặc biệt là các vùng nông thôn. Do đó, thu nhập bình quân đầu người thực tăng ở tỷ lệ chỉ 1 phần trăm gần suốt thập niên 80. Lạm phát ước tính chính thức khoảng 22% vào năm 1988, xuống từ mức 41% năm 1985. Số liệu các khoản thu nhập quốc gia từ năm 1985 đến 1989 được cho ở bảng 1-2. Hầu hết các công chức nhận lương tăng chỉ khoảng 4%/1 năm từ 1985 đến 1989, vì vậy sức mua giảm do lương thấp. Thất nghiệp ước tính khoảng 20 phần trăm ở thành thị, mặc dù ước tính không đáng tin cậy. Thất nghiệp trá hình và nữa thất nghiêp ở nông thôn, được ghi nhận bởi tình trạng di cư lên thành thị. Trong khi nỗ lực để giải quyết vấn đề này, chính phủ đã thuê nhiều công nhân không có kỹ năng làm những việc không đòi hỏi kỹ năng, dù có ít việc cho họ làm. Bảng 1-2 Tài khoản thu nhập quốc gia, 1985 – 89 (million peso) Danh m ục 1985 1986 1987 1988 1989 1989 (US$) GDP 71,204 99,762 133,982 177,373 225,132 30,018 Consumption 3,012 83,095 106,473 136,758 164,997 22,000 Chi tiêu chính phủ 14,695 21,307 30,257 41,755 57,621 7,683 Chi tiêu vãng lai 10,906 15,814 22,457 30,990 42,767 5,702 Chi tiêu xây dựng cơ bản 3,788 5,493 7,800 10,764 14,854 1,980 Chi khu vực tư 2,422 3,817 5,649 6,597 9,903 1,320 Xuất khẩu 9,991 15,186 21,868 30,396 39,516 5,269 Nhập khẩu -18,916 -23,645 -30,266 -38,135 -46,906 -6,254 GDP bình quân đầu người 1,959 2,691 3,509 4,545 5,625 750 Dân số (triệu) 36.3 37.1 38.2 39 40 n.a Tỷ lệ lạm phát (%) 41 36 30 28 22 n.a Tốc độ tăng GDP bq đầu người thực 0.5 1 0.3 1.2 1.5 n.a PHẦN II: KHU VỰC CÔNG CHÍNH QUYỀN TRUNG ƯƠ NG Chính quyền trung ương bao gồm quốc hội, với 1 thủ tướng và 1 nội các, và 1 tổng thống đã được bầu để kết hợp vừa quản lý chung vừa làm những nhiệm vụ quan trọng khác. Chính quyền TW chịu trách nhiệm về mặt giáo dục ở tất cả các cấp (ngoại trừ xây dựng hệ thống trường tiểu học); Quốc phòng; Các bệnh viện và những trung tâm y tế; Các trường y; cơ sở hạ tầng; công an và hệ thống luật pháp; quan hệ quốc tế; những công viên công cộng và nhà bảo tàng; Ngân hàng TW; Hệ thống bảo hiểm xã hội; Sự giám sát của hệ thống ngân hàng và hệ thống kinh doanh; Nghiên cứu và mở rộng ngành nông nghiệp; và những quy định về nông nghiệp, công nghiệp và hệ thống tài chính. 5 trường ĐH công cộng, mỗi cái ở 1 tỉnh, được tài trợ bởi chính phủ. Ngoài ra cũng có những học viện kỹ thuật ở 1 số trung tâm của các tỉnh. Tất cả các trường trung học thì được tài trợ riêng. Chính quyền TW quản lý 1 số doanh nghiệp nhà nước (SOEs), kể cả sân bay và phương tiện vận chuyển hàng không, thành phố cảng, hệ thống năng lượng điện, hệ thống phân phối và xử lý nước, bưu điện, hệ thống xe bus, và vài nhà máy xi-măng. Trong vai trò đánh thuế chính, chính quyền TW giám sát việc thi hành thuế ở các chính quyền địa phương. CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Các tỉnh không được quyền độc lập riêng; họ hoạt động như phân khu hành chính của chính quyền TW, chính quyền địa phương trong thành phố và làng xã chịu trách nhiệm trong việc phân phối nguồn nước, xử lý hệ thống nước thải và cống, rãnh, rác thải, dọn dẹp đường phố, thực thi luật pháp, chợ trời, xây dựng và duy trì hệ thống giáo dục.Khi mà nguồn quỹ được cung cấp cho các trung tâm sức khỏe địa phương không đồng đều, chính quyền địa phương thường phải bù đắp vào các lỗ hổng hay là hỗ trợ cho các dịch vụ cơ bản khác. Hội đồng địa phương nhận được phần lớn quỹ hỗ trợ từ chính phủ (khoảng 80%), con số này được bổ sung bởi các khoản thuế ít ỏi của địa phương cùng với 1 vài khoản phí và lệ phí (khoảng 15%). Những thành phố lớn hơn cung cấp hệ thống giao thông công cộng chủ yếu là xe bus và sửa sang các công viên thành phố. CHI PHÍ ĐIỀU HÀNH Các chi phí quản lý hỗn hợp của chính quyền TW và địa phương chiếm khoảng 19% GDP, chính quyền TW sử dụng 42,8 tỷ pesos một năm. Bao gồm cả những khoản chuyển giao cho chính quyền địa phương. Mặc dù những số liệu về tổng thu nhập và chi tiêu còn sơ xài, nhưng có những ước tính cho rằng tỉ lệ chi tiêu tại địa phương hàng năm khoảng 77 triệu pesos. Mức độ chi tiêu tổng hợp này còn khá thấp so với tiêu chuẩn trong khu vực là gần 20% GDP. Ước lượng sự phân bổ ngân qũy của chính phủ được liệt kê chi tiết trong từng khoản mục tại bảng 2-1. Bảng 2-1: Phân bổ ngân sách của Chính phủ năm 1988-1989 Chỉ tiêu Pesos (triệu) Tỷ trọng % Dịch vụ công tổng quát 9,759 22.4 Quốc phòng 8,725 20.4 Xã hội 12,702 29.7 + Giáo dục 6,843 16.0 + Y tế 3,207 7.5 + Văn hóa 513 1.2 Các dịch vụ XH khác 2,138 5.0 Kinh tế 11,761 27.5 + Nông nghiệp và các ngành 769 1.8 liên quan + Cấp nước 609 6.1 + Điện 6,116 14.3 Vận tải và truyền thông 2,267 5.3 + Vận tải hàng không 642 1.5 + Chủ quyền cảng 427 1.0 + Đường sắt và xe buýt 385 0.9 + Truyền thông 470 1.1 + Bảo trì đường xá 342 0.8 Tổng cộng 42,767 100.0 CHI ĐẦU TƯ Những khoản đầu tư công cộng tại Lafrasia, bao gồm các dự án viện trợ tài chính là khoảng 7% GDP và chiếm 60% tổng vốn đầu tư của cả khu vực công lẫn khu vực tư nhân. M ặc dù con số này nghe có vẻ hợp lý, nhưng đã có những cuộc tranh luận đáng kể về nguồn quỹ hỗ trợ hiện tại giữa các khu vực và sự cân bằng thích hợp giữa đầu tư công cộng và đầu tư cá nhân. Việc khôi phục thành phố bị xao lãng, đặc biệt là trong các công trình công cộng như đường xá, trường học, tưới tiêu, thủy điện nhận được phần lớn sự đầu tư gần 43%, bởi vì thủ tướng đã cam kết sẽ mang điện tới từng hộ gia đình ở Lafrasian. Ở những lĩnh vực khác có sự ùn tắc về nhu cầu đầu tư. Không có báo cáo nào về sự đầu tư của chính quyền địa phương, nhưng có thể tin tưởng rằng hầu hết các quỹ hỗ trợ địa phương đều được đầu tư trực tiếp vào việc phục hồi hơn là đầu tư xây dựng mới. Việc ưu tiên cấp bách cho đầu tư lúc này là hỗ trợ cho chính quyền địa phương để xây dựng trường học, trung tâm sức khỏe,phục hồi đường xá, trồng cây cà phê, xây dựng đường xe lửa, phát triển hệ thống điện nước để phục vụ cho nhiều người hơn. Phục hồi các công trình công cộng và phát triển sân bay, cầu cảng. Nhiều dự án hiện nay được tài trợ bởi các nguồn quỹ bên ngoài. Vì thế cơ cấu của quỹ đầu tư công cộng được sắp xếp tài trợ. Bảng 2-2 cho thấy đánh giá việc sử dụng vốn trong khu vực công cộng trong năm 1988-1989, bao gồm những dự án tài trợ. Bảng 2-2: Chi đầu tư khu vực công, 1988-1989 Chỉ tiêu Pesos (triệu) Tỷ trọng % Dịch vụ công tổng quát 609 4.1 Quốc phòng 1,807 12.5 Xã hội 2,629 17.7 + Giáo dục 1,129 7.6 + Y tế 921 6.2 + Văn hóa 82 1.9 Các dịch vụ XH khác 297 2.0 Kinh tế 9,760 65.7 + Nông nghiệp 59 0.4 + Cấp nước 1,322 8.9 + Điện 6,299 42.4 Vận tải và truyền thông 2,080 14.0 + Vận tải hàng không 520 3.5 + Cảng biển 327 2.2 + Đường sắt và xe buýt 297 2.0 + Bảo trì đường xá 787 5.3 + Truyền thông 149 1.1 Tổng cộng 14,854 100.0 CHI PHÍ VẬN HÀNH CÁC DỰ ÁN Khi những dự án mới như đường xá, các dự án năng lượng điện, trung tâm chăm sóc sức khỏe ở nông thôn, hệ thống cung cấp nước, đi đến giới hạn, Lafrasia phải chấp nhận gánh nặng trong chi phí quản lý và điều hành, bao gồm chi phí nhân lực, trang thiết bị. Bộ Tài Chính (dựa trên những nghiên cứu của tổ chức Phi Chính Phủ) đánh giá rằng cứ 100pesos của quỹ tài trợ đầu tư vào 1 dự án sẽ dẫn đến việc quay vòng chi phí ngân sách khoảng 25pesos mỗi năm cho việc điều hành và quản lý. Sự cảnh báo cho những gánh năng tài chính trong tương lai này đã dẫn đến sự miễn cưỡng phải nhận thêm những dự án tài chính trong nước. QUẢN LÝ NGÂN SÁCH Việc quản lý các nguồn lực công là một quy trình kỹ thuật cao đòi hỏi cấu trúc thể chế có khả năng tốt và sự kết hợp nhiều kỹ năng của người thực hiện. Trọng tâm của quy trình này là hệ thống hoạch định và dự toán ngân sách, với sự kết hợp chặt chẽ của 3 yếu tố chính: Lập kế hoạch thực hiện và dự toán ngân sách phải phân chia các nguồn lực có giới hạn trong số các chương trình mang tính cạnh tranh theo cách phù hợp với các mục tiêu chung và chính sách vĩ mô Các khoản chi tiêu do các nhà hoạch định chính sách đưa ra phải nằm trong dự toán ngân sách và phải được trang trải cho các chương trình định sẵn. Các khoản tiền chi tiêu phải được ghi chép lại để giúp cho việc sử dụng các nguồn lực công được báo cáo đúng thời gian và thể hiện tính rõ ràng minh bạch. Ở Lafrasia, cơ chế lập kế hoạch ngân sách không theo cách thức như vậy. Nước này đang cố gắng kết hợp lập ngân sách 3 năm một, liên quan đến chương trình đầu tư công, nhưng những tranh cãi chủ yếu lại xảy ra giữa Ủy ban đầu tư, chịu trách nhiệm chuẩn bị chương trình chi đầu tư hàng năm và Bộ tài chính, chịu trách nhiệm tiến hành kế hoạch ngân sách định kỳ. Không có những chi phí không được công khai định kỳ trong trung hạn hoặc dài hạn của các chương trình đầu tư công được đưa vào sổ sách kế toán khi những dự án mới được bắt đầu chẳng hạn như theo tính toán cứ mỗi 100 pesos của một dự án thì có 25 pesos được sử dụng cho quá trình hoạt động và trợ cấp một năm. Việc thực thi ngân sách vài năm gần đây là quá trình tranh cãi giữa bộ tài chính và những nhà tài trợ để xác định các lĩnh vực chi tiêu. Mối liên hệ giữa hệ thống chính sách và dự toán ngân sách rất kém là do sự quan tâm của Bộ tài chính chủ yếu nhằm vào việc cắt giảm chi tiêu trong khi những nỗ lực của những nhà tài trợ là gia tăng sự kiểm soát của họ trong hoạt động đầu tư của ngân sách. Ngân sách hàng năm được lập theo nguyên tắc ngày càng tăng lên, và thông thường vào giữa năm, việc cắt giảm thông qua bộ được tiến hành nếu các khoản thu nhập từ thuế không thực hiện đủ theo kế hoạch. Kết quả là việc thực hiện chi tiêu cho các kế hoạch đã định (chẳng hạn như thực hiện dự án) thường bị chậm trễ. Hơn nữa, các dự án đầu tư công thường phải trải qua rất nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện do sự hạn chế về kỹ thuật và kỹ năng quản lý. CƠ SỞ HẠ TẦNG ĐÔ THỊ Ở Lafrasia sự di trú ra các thành phố là rất mạnh mẽ, đặt biệt là ra thủ đô. Phương tiện giao thông công cộng thì lại không tương thích và rất ọp ẹp. chỉ khoảng 60% dân số ở thành thị (và một tỷ lệ thấp hơn ở nông thôn) có cơ hội được cung cấp nước sạch, và hệ thống cung cấp nước đang rất tồi tệ và cần được sửa chữa. Việc khan hiếm nhà ở diễn ra thường xuyên trên cả nước và các khu nhà ổ chuột đang mọc lên xung quanh các thành phố lớn. M ột hậu quả của việc tập trung đông người, sự khan hiếm nước sạch là sự gia tăng hơn thường lệ các bệnh truyền nhiễm, là do sự thiếu vắng của các phương tiện chăm sóc sức khỏe công cộng ở thành thị. Các công trình công cộng, nhà bảo tàng, thư viện cũng cần được duy trì và khôi phục lại. ĐƯỜNG XÁ Quốc gia này có 2.600 dặm đường quốc lộ, 8600 dặm đường thứ cấp và khoảng 11000 miles đường phụ trợ, thường không được trải đá. Ngân sách thủ đô có các quỹ riêng dành cho việc xây dựng mới và phục hồi các tuyến đường chủ yếu nhưng để duy trì và phục hồi các tuyến đường phụ (khoảng 11.200 miles đường xấu và 11.000 miles đường phụ trợ) đòi hỏi một khoản ngân quỹ thực hiện là 342 triệu pesos, theo tỷ giá hiện tại là khoảng 45,6 triệu USD.Những quỹ này được sử dụng để trả lương cho người lao động, nhập khẩu nguyên vật liệu, phương tiện vận tải và máy móc thiết bị. Do có sự ùn tắc trong việc thực hiện các dự án, với mức độ chi tiêu này nghĩa là các con đường trung bình sẽ được sửa chữa 10 năm một lần, đối với đường quốc lộ là 5 năm một lần; các con đường phụ trợ và đường thứ cấp khoảng từ 6 đến 8 năm một lần. Những con đường phụ trợ thường không được rải đá nhưng nó có thể vẫn qua lại được nếu như những chiếc xe tải nặng nhất không thường xuyên đi qua. Tuy nhiên, việc bỏ mặc các con đường này suốt các mùa trong năm làm cho khoảng ba phần tư những con đường này không một loại phương tiện nào có thể qua lại được cho bất cứ loại phương tiện nào, trừ xe đạp. Các con đường chính cũng trong tình trạng tồi tệ cần được sửa lại mặt đường hoặc cần được phục hồi nhiều hơn nữa. Hai con đường chính, một nối liền thủ đô tới thành phố cảng Bahia Linda và một dẫn đến khu trang trại trồng mía và dừa đều có những đoạn đường vòng và đều trong tình trạng tồi tệ. Một số cây cầu phải giới hạn trọng tải qua cầu và cần được xây dựng lại hay ít nhất cần được gia cố lớn để có thể cho phép các xe tải lưu thông. Theo tính toán của Bộ Tài chính, chi phí cho việc phục hồi tất cả các con đường sẽ gấp khoảng 10 lần chi phí cho việc cung cấp sách giáo khoa cho tất cả học sinh ở tám cấp học trong hơn 10 năm tới. Mùa mưa đến tương đối trễ đã làm phức tạp thêm cho việc xây dựng các con đường bởi nó làm gián đoạn thời gian để bảo trì và sửa chữa đường xá. QUẢN LÝ TÀI SẢN M ột vấn đề chủ yếu trong lĩnh vực quản lý đường xá là sự thiếu vắng của việc kiểm kê nhưng không chỉ lĩnh vực này mà các lĩnh vực khác cũng tương tự. Việc thiếu hụt các cơ quan quản lý tài sản đặc biệt là điều kiện quản lý và quy trình quản lý xảy ra ở tất cả các lĩnh vực. Ngoại trừ các tòa nhà của chính phủ và các bệnh viện ở trung ương được quản lý kê khai tốt còn hầu hết các tài sản công đều không được giám sát và lên kế hoạch tài trợ. VẤN ĐỀ CHI TIÊU NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG Tiếp tục trì hoãn các khoản chi sẽ dẫn đến kết quả là sự hư hỏng đáng kể của toàn bộ cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường xá, hệ thống tưới tiêu và các tòa nhà của chính phủ. việc chi tiêu không đúng tiến độ sẽ dẫn đến sự ùn tắc các công trình, theo tính toán thiệt hại khoảng 2,5%GDP hay khoảng 9% tổng chi tiêu hàng năm của chính phủ. Việc thực hiện các dự án đã tụt lại khá xa so với kế hoạch, đòi hỏi phải có sự khôi phục mạnh mẽ hơn nữa. Vấn đề để bắt kịp tiến độ đối với việc ùn tắc các dự án không chỉ là cấp phát ngân sách mà còn cần quan tâm đến vấn đề quản lý. Kỹ thuật và nhân lực quản lý được đào tạo không thỏa đáng và các quy trình xây dựng ngân sách không nhận được bất cứ nhập liệu nào từ dự án hay các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước liệu có thể ước lượng đúng nhu cầu ngân quỹ cho hoạt động thường xuyên và đầu tư. Các xung đột thường nảy sinh trong quá trình giám sát các khoản chi vì phần lớn quỹ ngân sách đều tập trung từ chính quyền trung ương nhưng chịu trách nhiệm tiến hành các khoản chi lại được thực hiện ở cấp tỉnh và các cấp địa phương. SO SÁNH CÁC MÔ HÌNH CHI TIÊU So với các nước khác trong khu vực, việc kết hợp chi tiêu của Lafrasia giữa ngân sách địa phương và trung ương cho sức khỏe và giáo dục phổ thông là khá thấp. M ặc dù sau 10 năm thực hiện quy chế dân chủ và duy trì mối quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng nhưng chi tiêu cho quốc phòng vẫn còn duy trì ở mức cao. Việc trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước và người lao động làm việc trong khu vực công làm kiệt quệ thêm ngân sách. Số liệu so sánh chi tiêu, sử dụng những công cụ so sánh tại các quốc gia láng giềng tương tự được đưa ra trong bảng 1-1 và bảng 2- 3. THU NGÂN SÁCH Các khoản thu nội địa đã tăng khoảng 10% trong vài năm gần đây là do kết quả của các chính sách cải cách thuế. Cùng với các khoản viện trợ và các khoản vay nước ngoài được sử dụng cho các dự án trung ương, thâm hụt ngân sách đã giảm trong vòng năm năm từ 40% xuống còn khoảng 16% tổng chi tiêu (khoảng 3,7% GDP). Con số này cho thấy sự cải thiện hơn nhiều so với số liệu cách đây 5 năm, khi nền dân chủ vẫn còn phải khắc phục nhưng hậu quả của các chính sách sai lầm trong 30 năm qua, hướng đến sự hợp tác đa phương. Các lời khuyên của chuyên gia nước ngoài cũng như sự hỗ trợ về kỹ thuật, tài trợ ngân sách làm cho quá trình phân phối các nguồn lực hiệu quả hơn và làm giảm thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần phải làm ở cả hai lĩnh vực thuế và chi tiêu công. Bảng 2-4 cung cấp tổng thể quy mô thu ngân sách năm 1989. CHI HOẠT ĐỘNG VÀ TRỢ CẤP M ột vấn đề phụ nhưng đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối liên