Tiểu luận Nguồn nhân lực đối với sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Trong bối cảnh quốc tế hiện thời, khi mà khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa học và công nghệ hiện đại, công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH, HĐH) đang được coi là xu hướng phát triển chung của các nước đang phát triển để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Đó cũng là chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhằm hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi nhiều nhân tố quan trọng như: vốn, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, song yếu tố quan trọng và quyết định nhất là con người. Nếu so sánh các nguồn lực khác thì nguồn nhân lực được xem như yếu tố nội sinh, quyết định sự thành bại trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao luôn chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhận thức rõ vai trò của nguồn nhân lực, báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc đã chỉ rõ “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phương hướng chung trong nhiều năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đó là chiến lược đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, muốn đạt được điều đó, chúng ta cần nghiên cứu một cách khoa học và chính xác thực trạng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay để từ đó đề ra giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng như phát huy một cách cao nhất vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó cũng là lý do nhóm chúng tôi chọn đề tài tiểu luận “Nguồn nhân lực đối với sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”

pdf23 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4801 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nguồn nhân lực đối với sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI 1/23 Tiểu luận Nguồn nhân lực đối với sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI 2/23 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong bối cảnh quốc tế hiện thời, khi mà khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa học và công nghệ hiện đại, công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH, HĐH) đang được coi là xu hướng phát triển chung của các nước đang phát triển để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Đó cũng là chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhằm hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi nhiều nhân tố quan trọng như: vốn, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, song yếu tố quan trọng và quyết định nhất là con người. Nếu so sánh các nguồn lực khác thì nguồn nhân lực được xem như yếu tố nội sinh, quyết định sự thành bại trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao luôn chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhận thức rõ vai trò của nguồn nhân lực, báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc đã chỉ rõ “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phương hướng chung trong nhiều năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đó là chiến lược đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, muốn đạt được điều đó, chúng ta cần nghiên cứu một cách khoa học và chính xác thực trạng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay để từ đó đề ra giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng như phát huy một cách cao nhất vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó cũng là lý do nhóm chúng tôi chọn đề tài tiểu luận “Nguồn nhân lực đối với sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu vai trò, thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay cũng như phương hướng, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong việc đào tạo TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI 3/23 và sử dụng nguồn nhân lực để nhóm chúng tôi làm rõ hơn những điểm được và những điểm còn hạn chế của nguồn nhân lực nước ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiên đại hóa đất nước. Từ đó nhóm cũng xin đưa ra một số ý kiến khuyến nghị nhằm đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả hơn. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 4. Phạm vi nghiên cứu Tiểu luận tập trung nghiên cứu vai trò và thực trạng của nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa bắt đầu từ Đại hội Đảng III (1960). 5. Phương pháp nghiên cứu Trong bài tiểu luận này, chúng tôi chủ yếu sưu tầm và tổng hợp các bài viết từ sách, báo, giáo trình, văn kiện Đại hội Đảng, các bài viết trên mạng internet, các báo cáo nghiên cứu tại các hội thảo, chuyên đề... sau đó dùng phương pháp phân tích, tổng hợp kết hợp với liệt kê để làm sáng tỏ vấn đề. 6. Nội dung và kết cấu bài luận Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, bài luận gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về CNH, HĐH và nguồn nhân lực Chương 2: Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước yêu cầu CNH, HĐH đất nước Chương 3: Giải pháp nhằm phát triển và khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI 4/23 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CNH, HĐH VÀ NGUỒN NHÂN LỰC 1.1 Cơ sở lý luận về CNH, HĐH 1.1.1 Khái niệm về CNH, HĐH. Kế thừa có chọn lọc những kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hóa và thực tiễn công nghiệp hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định: Công nghiệp hóa là quá trình cuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý k inh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Như vậy, quan niệm trên cho thấy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta kết hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong quá trình phát triển. Quá trình ấy không chỉ đơn thuần là chuyển lao động từ thủ công thành lao động cơ khí như trước đây mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại. 1.1.2 Vai trò của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam. Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra đường lối công nghiệp hoá và coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội. Phân tích những tác dụng cơ bản của công nghiệp hoá đối với nền kinh tế đất nước hiện nay càng làm rõ ý nghĩa vai trò trung tâm của công nghiệp hoá. Thứ nhất, công nghiệp hóa tạo điều kiện thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, tăng sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế ; ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI 5/23 Thứ hai, công nghiệp hóa tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực quản lý, khả năng tích lũy và phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát triển tự do toàn diện của con người trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Thứ ba, công nghiệp hóa tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học công nghệ phát triển nhanh, đạt trình độ tiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh, đảm bảo đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện. Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hoá kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 1.2 Cơ sở lý luận về nguồn nhân lực 1.2.1 Những nhận thức chung về nguồn nhân lực Cho đến nay, khái niệm nguồn nhân lực đang được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau. Theo Liên Hợp Quốc thì: “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”. Ngân hàng thế giới cho rằng: “nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân”. Như vậy, ở đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Theo tổ chức lao động quốc tế thì: “Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động”. Như vậy nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI 6/23 xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động. Dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu: “Nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước”. Nguồn nhân lực theo quan niệm trên tập trung phản ánh ba vấn đề: Thứ nhất, xem xét nguồn nhân lực dưới góc độ nguồn lực con người-yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội; Thứ hai, nguồn nhân lực bao gồm số lượng và chất lượng, trong đó mặt chất lượng thể hiện ở trí lực, nhân cách, phẩm chất đạo đức, lối sống và sự kết hợp giữa các yếu tố đó; Thứ ba, nghiên cứu về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực nhất thiết phải gắn liền với thời gian và không gian mà nó tồn tại. Từ những luận điểm trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực. Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế- xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người. 1.2. 2Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự nghiệp CNH, HĐH Thứ nhất, nguồn nhân lực vừa là động lực, vừa là mục tiêu của quá trình CNH, HĐH. Con người không ngừng tìm tòi, học hỏi, phát triển khoa học kĩ thuật nhằm tìm ra những phương thức hiệu quả nhất tác động vào thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên, tạo ra những giá trị mới cho xã hội. Con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội, nó thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Mặc dù mức độ phát triển của sản xuất quyết định mức độ tiêu dùng song nhu cầu tiêu dùng của con người lại tác động mạnh mẽ đến sản xuất thông qua quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường. TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI 7/23 Phát triển kinh tế – xã hội nhằm mục tiêu phục vụ con người, làm cho cuộc sống con người ngày càng tốt hơn, xã hội ngày càng văn minh. Thứ hai, nguồn nhân lực là nguồn lực chính trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Để thành công trong sự nghiệp CNH,HĐH thì chúng ta cần kết hợp rất nhiều nguồn lực như: tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, vốn đầu tư, khoa học công nghệ… Trong các nguồn lực đó thì nguồn nhân lực được xem là yếu tố nội sinh chi phối các yếu tố còn lại. Các nguồn lực như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng và chúng chỉ phát huy tác dụng khi có ý thức của con người tác động vào. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí biết tận dụng, gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nguồn nhân lực còn là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác. Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận. Tính vô tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó không chỉ có khả năng tái sinh mà còn tự sản sinh và đổi mới không ngừng nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên. Thứ ba, nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH. Một đất nước có khoa học kỹ thuật hiện đại thì sẽ là điều kiện lớn để phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, con người lại là người phát minh, tạo ra khoa học công nghệ. Trí tuệ của con người càng cao thì sẽ tạo ra một nền khoa học hiện đại, có khả năng khai thác một cách tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên và mở rộng ra nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, phục vụ cho sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của đất nước. TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI 8/23 Bên cạnh đó, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự thành công của công nghiệp hoá hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào hoạch định đường lối chính sách cũng như cách thức tổ chức thực hiện các nhiệm vụ. Điều này phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Đây là yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy khoa học kỹ thuật trong các ngành sản xuất phát triển, qua đó tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế được đi đúng hướng. Thứ tư, nguồn nhân lực, đặc biệt là chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nguồn nhân lực mà có trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thì khả năng tư duy sáng tạo, tinh thần làm việc cũng như tinh thần trách nhiệm và tính tự giác sẽ cao, khả năng tiếp thu khoa học công nghệ cũng cao hơn. Nước ta tiến hành công nghiệp hóa trong xu thế khu vực hóa và toàn cấu hóa về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại trên thế giới phát triển rất nhanh chóng. Vì vậy, chúng ta cần phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, năng động sáng tạo để chủ động nắm lấy thời cơ, phát huy những lợi thế sẵn có để đấy nhanh quá trình công nghiệp hóa, tạo ra thế và lực mới để vượt qua những thách thức, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI 9/23 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRƯỚC YÊU CẦU CNH – HĐH ĐẤT NƯỚC 2.1 Về số lượng Tổng số dân của Việt Nam tính đến 01/04/2009 là 85.789.753 người, Việt Nam là nước đông dân thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á và đứng hàng thứ 13 trong số những nước đông dân nhất thế giới. Tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm là 1,2%, như vậy mỗi năm dân số nước ta sẽ tăng 10.294.770 người. Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Đến hết năm 2007, cả nước có trên 44 triệu lao động trên tổng số 85,3 triệu dân. Mỗi năm Việt Nam có hơn 1,2 triệu người đến tuổi lao động và được bổ sung vào lực lượng lao động của đất nước. Nguồn nhân lực trẻ gắn với những điểm mạnh như sức khỏe tốt, năng động, dễ tiếp thu cái mới, nắm bắt công nghệ nhanh, di chuyển dễ dàng. Nếu được học văn hóa, đào tạo nghề, họ sẽ phát huy tác dụng trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Đây là yếu tố rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội. 2.2 Về chất lượng 2.2.1 Thể trạng, sức khoẻ nguồn nhân lực Việt Nam Thể lực của người Việt Nam nhìn chung còn thấp kém, phần lớn chưa đáp ứng yêu cầu cường độ làm việc của xã hội công nghiệp hiện đại và các chuẩn quốc tế. Theo đánh giá của Viện Khoa học Thể dục-Thể thao (Uỷ ban Thể dục-thể thao), so với thể lực của thanh thiếu niên các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Inđônêsia thì thể chất người Việt Nam từ 6-20 tuổi còn kém hơn về chiều cao, cân nặng, sức mạnh, sức bền và chỉ tương đương về sức nhanh, sự khéo léo và mềm dẻo. Theo kết quả điều tra năm 2000 số người lao động không đủ tiêu chuẩn về cân nặng là 48,7%, số người suy dinh dưỡng là 28%, số phụ nữ thiếu máu là 40%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi theo chiều cao (tỷ lệ thấp còi) còn cao (năm 2005 là TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI 10/23 26%), cao hơn nhiều so với các nước Trung Quốc (17%), Philippin (11%) và Thái Lan (16%); và điều này sẽ còn tiếp tục tác động tiêu cực đến thể trạng và thể lực của người lao động trong tương lai. Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu về sức khoẻ, y tế của các nước ASEAN. Chỉ tiêu Thời gian Việt Nam Brunây Inđônêxia Malaixia Philippin Thái Lan Xingap o Tuổi thọ bình quân 1992 63,4 74 62 70,4 64,4 68,7 74,2 Cung cấp calo bình quân/người 1988-1990 2220 2860 2610 2670 2340 2280 3210 Tỷ lệ cung cấp calo/người so với nhu cầu tối thiểu(%) 1988-1990 102 _ 112 124 108 100 144 Tỷ lệ được dịch vụ y tế(%) 1985-1990 90 96 80 90 75 70 100 Tỷ lệ được dùng nước sạch(%) 1988-1991 27 95 51 72 82 76 100 Nguồn: chỉ số và chỉ tiêu phát triển con người. NXB Thống Kê. Hà Nội 1995. Qua bảng trên ta thấy các chỉ số của Việt Nam luôn ở mức thấp, có những chỉ số ở mức thấp nhất trong khu vực. Những chỉ tiêu liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất, thể lực của người lao động Việt Nam rất thấp. Cung cấp calo bình quân đầu người chỉ có 2220 calo, thấp nhất trong khu vực. Một loạt các chỉ tiêu khác liên quan đến y tế, chăm sóc sức khoẻ của Việt Nam cũng còn ở mức thấp, điều đó lý giải phần nào sự hạn chế về mặt thể lực của nguồn nhân lực Việt Nam. Như vậy tình trạng sức khoẻ người Việt Nam ở mức trung bình kém, điều này làm giảm chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá của đất nước và giảm sức cạnh tranh của lao động Việt Nam trên thị trường lao động thế giới. 2.2.2 Trình độ giáo dục của nguồn nhân lực Việt Nam Trình độ giáo dục của nguồn nhân lực ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nguồn nhân lực, nó phản ánh khả năng tiếp thu và vận dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Tuy nhiên, trình độ giáo dục nguồn lao động của Việt Nam chưa đáp ứng được những đòi hỏi phát triển trong giai đoạn hiện nay thông qua nhiều thông số. Tính trong cả nước, vào năm 2004 dân số hoạt động kinh tế có 32,8% mới tốt nghiệp tiểu học; 19,7% tốt nghiệp trung học phổ thông; tỷ lệ mù chữ là 5,01%. TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI 11/23 Trình độ học vấn của lao động nước ta trong những năm gần đây đã được nâng lên đáng kể. Nếu như năm 2003, lao động có trình độ trung học phổ thông chiếm 62,2% thì đến năm 2005 con số này tăng lên đến 69,3%. Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và so với trình độ của lao động các nước trong khu vực và quốc tế thì trình độ học vấn của lao động nước ta còn thấp. Bảng 2.2: Trình độ giáo dục dân số hoạt động kinh tế của các nước Châu Á 1996 (%). Trình độ Việt Nam Singapore Malaixia Hàn Quốc Đài loan Hồng Kông Giáo dục đại học 5,1 23 5 50 40 40 Giáo dục trung học 9,8 30 48 20 20 23 Giáo dục tiểu học 85,1 47 47 30 40 37 Nguồn: Báo cáo của Bộ Lao Động, Thương binh và Xã hội Việt Nam 1996 2.2.3 Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nguồn nhân lực Việt Nam. Chất lượng về mặt trí lực của nguồn nhân lực không chỉ thể hiện ở trình độ học vấn, quan trọng hơn là trình độ chuyên môn kỹ thuật, thông qua số lượng và chất lượng của lao động đã qua đào tạo. Bảng 2.3: Chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ CMKT (%) Các chỉ tiêu 1979 1989 1999 2003 2005 1. Không có trình độ CMKT 95,03 92,7 91,9 78,78 75,21 2. Công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ có bằng 3,39 2,2 2,4 12,65 15,22 3. Trung học chuyên nghiệp 1,06 3,2 3,0 4,01 4,3 4. Cao đẳng trở lên 0,52 1,9 2,7 4,77 5,27 Tổng 100 100 100 100 100 Nguồn: Kết quả điều tra mẫu H.2000.; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Số liệu thống kê lao động việc làm ở Việt Nam năm 2005, Hà Nội 11-2005. Trong những năm vừa qua, tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật có xu hướng tăng lên. Năm 1999, có 8,1% tổng lực lượng lao động cả nước có chuyên môn kỹ thuật; năm 2003 là 21,22% và đến năm 2005, tỷ lệ lao động cả nước có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng lên 24,79%. TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI 12/23 Tuy nhiên, con số này còn thấp so với yêu cầu. Tính đến 2005, lao động qua đào tạo ở Việt Nam chiếm một tỷ lệ rất thấp (24,79%), lao động chưa qua đào tạo còn chiếm một tỷ lệ rất cao (75,21%). Bên cạnh đó, trình độ giáo dục và đào tạo chuyên nghiệp nguồn lao động của Việt Nam còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn: Một mặt, thiếu hẳn đội ngũ lao động có chuyên môn cao;