Đối với các tổ chức, doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay đều xác định yếu tố nguồn nhân lực là yếu tố cốt lõi và quyết định đến sự sống còn và thành công của doanh nghiệp. Với sự phát triển mạnh mẽ của KHCN và sự hình thành kinh tế tri thức làm cho các tổ chức, doanh nghiệp đã thay đổi các quan điểm về vai trò các nguồn lực trong quá trình sản xuất. Trong đó nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức thì tri thức là yếu tố quyết định trong quá trình sản xuất và sáng tạo là để tồn tại và cạnh tranh. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và cạnh có hiệu quả và đạt lợi nhuận cao nhất buộc phải quan tâm hàng đầu về yếu tố quyết định là con người. Các doanh nghiệp đang dần thay đổi quan điểm “ Nguồn nhân lực là yếu tố đẩu tư không phải là yếu tố chi phí”. Trên quan điểm đó ta có thể thấy: Thứ nhất đầu tư vào nguồn nhân lực đem lại lợi thế cạnh tranh, thứ hai đầu tư vào nguồn nhân lực đem lại lợi nhuận cao, hiệu quả lớn cho tổ chức.
` Đầu tư nguồn nhân lực đem lại lợi thế cạnh tranh cho tổ chức. Trong việc xây dựng chiến lược cạnh tranh cho tổ chức cần phải xác định được các ưu thế cạnh tranh của tổ chức so với các đối thủ cạnh tranh khác. Trong đó yếu tố con người là yếu tố quyết định về lợi thế cạnh tranh của tổ chức đó. Tạo ra ưu thế cạnh tranh theo quan điểm dựa vào nguồn lực của HT – RBV( yếu tố bên trong) :
10 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 6861 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nguồn nhân lực là đầu tư không phải là chi phí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ
LỚP QUẢN LÝ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ K27B
BÀI TIỂU LUẬN
Nguồn nhân lực là đầu tư không phải là chi phí
Học viên: Triệu Minh Hiếu
TP. Hồ Chí Minh tháng 5/2016
Đối với các tổ chức, doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay đều xác định yếu tố nguồn nhân lực là yếu tố cốt lõi và quyết định đến sự sống còn và thành công của doanh nghiệp. Với sự phát triển mạnh mẽ của KHCN và sự hình thành kinh tế tri thức làm cho các tổ chức, doanh nghiệp đã thay đổi các quan điểm về vai trò các nguồn lực trong quá trình sản xuất. Trong đó nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức thì tri thức là yếu tố quyết định trong quá trình sản xuất và sáng tạo là để tồn tại và cạnh tranh. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và cạnh có hiệu quả và đạt lợi nhuận cao nhất buộc phải quan tâm hàng đầu về yếu tố quyết định là con người. Các doanh nghiệp đang dần thay đổi quan điểm “ Nguồn nhân lực là yếu tố đẩu tư không phải là yếu tố chi phí”. Trên quan điểm đó ta có thể thấy: Thứ nhất đầu tư vào nguồn nhân lực đem lại lợi thế cạnh tranh, thứ hai đầu tư vào nguồn nhân lực đem lại lợi nhuận cao, hiệu quả lớn cho tổ chức.
` Đầu tư nguồn nhân lực đem lại lợi thế cạnh tranh cho tổ chức. Trong việc xây dựng chiến lược cạnh tranh cho tổ chức cần phải xác định được các ưu thế cạnh tranh của tổ chức so với các đối thủ cạnh tranh khác. Trong đó yếu tố con người là yếu tố quyết định về lợi thế cạnh tranh của tổ chức đó. Tạo ra ưu thế cạnh tranh theo quan điểm dựa vào nguồn lực của HT – RBV( yếu tố bên trong) :
Các tổ chức luôn có tài sản và năng lực khác nhau ( kinh nghiệm, văn hoá, kỹ năng ...) Tài sản và năng lực sẽ xác định ảnh hưởng và hiệu quả công việc, dù là hoạt động gì chăng nữa. Theo RBV, có những phẩm chất chính tạo cho tổ chức một ưu thế cạnh tranh bền vững, một tổ chức sẽ thực thi chỉ thành công nếu có được các nguồn lực phù hợp nhất và tốt nhất.
Các tổ chức luôn sở hữu các nguồn lực và năng lực, khả năng khác nhau, riêng có của mình và được sử dụng theo một cách nào đó để tạo thành lợi thế cạnh tranh trong quá trình tạo ra sản phẩm.
- Theo quan điểm xây dựng lợi thế cạnh tranh dựa vào nguồn lực. Các năng lực cốt lõi để tạo sự khác biệt của một tổ chức được sinh ra chính từ các nguồn lực và khả năng tiềm tàng của nó.
Các nguồn lực, theo nghĩa rộng, bao gồm một loạt các yếu tố tổ chức,kỹ thuật, nhân sự, vật chất, tài chính của tổ chức. Có thể chia thành:
Nguồn lực hữu hình: tài chính, vật chất, con người
Nguồn lực vô hình: danh tiếng, thương hiệu, văn hoá tổ chức, các tiềm năng của nhân lực
- Kể cả nguồn lực hữu hình và vô hình đều có thể được sử dụng để tạo ra năng lực cốt lõi, lợi thế cạnh tranh cho tổ chức. Một tổ chức sẽ thực thi chiến lược thành công nếu có được các nguồn lực phù hợp nhất và tốt nhất để tạo nên các năng lực cốt lõi tiêu tiểu cho chiến lược đó..
- Tuy nhiên một nguồn lực được lựa chọn cần hội đủ các phẩm chất chính tạo cho tổ chức một ưu thế cạnh tranh bền vững. Để tạo ưu thế cạnh tranh dựa vào nguồn lực cần làm cho nguồn lực trở thành duy nhất, độc đáo và đáng giá ( tổ chức khác không có) và muốn vậy nguồn lực đó phải khó xây dựng, khó mua, khó thay thế, khó bắt chước.
Trên quan điểm đó có thể thấy nguồn nhân lực của một tổ chức vừa là một nguồn lực hữu hình và cũng là một nguồn lực vô hình.
Các công ty đạt được lợi thế cạnh tranh thông qua các hành động đổi mới. Các công ty này tiếp cận sự đổi mới theo nghĩa rộng nhất của nó, bao gồm cả các công nghệ mới lẫn những cách thức mới để làm việc. Các công ty này nhận thức được một cơ sở mới cho việc cạnh tranh hay tìm ra các phương thức tốt hơn trong việc cạnh tranh theo cách cũ. Sự đổi mới có thể được bộc lộ trong một thiết kế sản phẩm mới, một quy trình sản xuất mới, một phương pháp tiếp thị mới, hay một cách thức mới để thực hiện việc đào tạo.
Sự đổi mới luôn luôn liên quan đến các khoản đầu tư vào kỹ năng và kiến thức. Một số sự đổi mới tạo ra lợi thế cạnh tranh qua việc nhận thức được một cơ hội thị trường hoàn toàn mới hay qua việc phục vụ cho một phân khúc thị trường mà những đối thủ khác đã bỏ qua. Khi các đối thủ cạnh tranh chậm chân trong việc phản ứng, thì sự đổi mới như vậy tạo ra lợi thế cạnh tranh. Muốn tạo ra được các ưu thế cạnh tranh đó thì yếu tố cốt lõi vẫn nằm ở trong yếu tố con người. Muốn áp dụng công nghệ mới vào sản xuất tăng năng suất lao động giảm giá thành sản phẩm đi đôi với nó cần phải có quá trình đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với sự đổi mới công nghệ để vận hành và sử dụng có hiệu quả.
Môi trường kinh doanh thay đổi nhanh chóng dẫn đến cạnh tranh ngày càng gay gắt muốn có nhiều ưu thế cạnh tranh các công ty, tổ chức cần phải đầu tư các nguồn lực trong đó có nguồn nhân lực.
Ví dụ: Với sự phát triển mạnh mẽ của internet như hiện nay tính riêng ở Việt Nam có đến 48% số người sử dụng internet, thì các hình thức quảng cáo truyền thống không còn mang lại nhiều hiệu quả bằng phương pháp tiếp cận người tiêu dùng qua các trang web thương mại điện tử. Thông tin và truyền thông qua internet giúp cho các doanh nghiệp, công ty có khả năng tiếp cận người tiêu dùng một cách trực tiếp, cung cấp cho người tiêu dùng về các thông tin của sản phẩm đầy đủ nhất và giúp cho người tiêu dùng có sự lựa chọn tốt nhất. Muốn làm được điều đó cần phải có một đội ngũ có trình độ, kỹ năng về IT có khả năng tốt về việc duy trì và phát triển trang web của công ty mang lại sự cạnh tranh cao so với các đối thủ.
Với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ mạnh mẽ yêu cầu tạo ra các sản phẩm công nghệ mới cần có đội ngũ kỹ sư các nhà nghiên cứu giỏi. Với các công ty hàng đầu về công nghệ với các chiến lược kinh doanh dẫn đầu về sản phẩm và khác biệt hoá sản phẩm thì các yếu tố sáng tạo tạo ra sự đột phá về các sản phẩm mang tính chất sống còn cho tổ chức. Sự sáng tạo chỉ có con người mới có thể tạo ra chứ không có thể có loại máy móc nào có thể tạo ra.
Ví dụ: Các công ty sản xuất điện thoại lớn như Samsung và Apple họ thường xuyên tạo ra các sản phẩm mới có tích hợp các công nghệ hoàn toàn mới. Vòng đời tạo ra sản phẩm mới của họ được rút lại rất ngắn nhằm phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Để làm được điều đó họ luôn luôn có các chính sách thu hút nhân tài có một đội ngũ nghiên cứu và phát triển sản phẩm hùng hậu.
Như vậy nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Nguồn nhân lực cần phải được đầu tư thích đáng để xây dựng và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao.
` Với nền sản xuất nhỏ chủ yếu là gia công sửa dụng sức người để tạo ra các sản phẩm không cần đầu tư nhiều vào chuyên môn, kỹ năng hay chất xám của đội ngũ lao động. Hiện nay với sự phát triển của khoa học công nghệ các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tăng, đặt ra yêu cầu tạo ra các sản phẩm mới đòi hỏi kỹ năng của người lao động phải ở một trình độ cao, do đó đầu tư vào nguồn nhân lực đem lại lợi nhuận cao, hiệu quả lớn cho tổ chức.
Điều có thể thấy rõ ràng nhất nguồn nhân lực là một trong các nguồn lực của tổ chức nhưng chỉ có sử dụng nguồn nhân lực mới có thể sử dụng được các nguồn lực khác của tổ chức thành sản phẩm, mang lại lợi nhuận cho tổ chức.
Nguồn nhân lực là một nguồn lực của một doanh nghiệp nguồn lực này mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp nếu các khoản chi cho đội ngũ nhân viên là các khoản đầu tư thích đáng để phát triển nguồn nhân lực. Đầu tư và phát triển nguồn nhân lực tương đối không cao so với việc đầu tư vào các nguồn lực khác với một tổ chức duy trì nguồn nhân lực tốt có thể tính thời gian phục vụ của người lao động là cả đời người. Nguồn nhân lực là nguồn lực vô hình của tổ chức mà không tổ chức nào giống tổ chức nào nó có thể tồn tại mãi mà không bị hao mòn. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, các lợi ích thu được từ đầu tư vào nguồn vốn nhân lực thu được chỉ trong điều kiện được sử dụng hiệu quả và có môi trường phát triển phù hợp và thuận lợi. Ngược lại sẽ là sự lãng phí đầu tư. Trong mọi sự lãng phí, lãng phí nguồn nhân lực con người là mất mát to lớn và đáng sợ nhất đối với mỗi tổ chức, doanh nghiệp.
Một số quan điểm cho rằng: Tiền lương là nhân tố có ảnh hưởng quyết định nhất tới quyết định chọn việc làm, thái độ làm việc của người lao động. Vậy nhà nước nói chung, và các doanh nghiệp nói riêng đã làm gì để thu hút, khuyến khích người lao động làm việc với hiệu quả công việc cao nhất.
Có thể khẳng định tiền lương là yếu tố ảnh hưởng tới quyết định làm việc của người lao động.
Tăng lương cũng chính là tăng đầu tư nguồn nhân lực.
+ Tăng lương chính là một trong các biện pháp tăng đầu tư cho nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Tăng lương chính là việc đầu tư cho con người. Đầu tư cho con người chính là một trong những hình thức đầu tư phát triển mang lại hiệu quả cao nhất, vì đây là việc đầu tư để nâng cao nguồn nhân lực.
+ Định hướng chính sách tiền lương cũng sẽ liên quan đến việc đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng được thu phí dịch vụ tính đủ tiền lương và từng bước tính đủ về chi phí hoạt động.
Dưới đây là một ví dụ về quan điểm đầu tư cho nguồn nhân lực tại một ngân hàng.
Cuối năm 2003, Hội đồng quản trị ngân hàng Sacombank đã quyết định thay đổi hoàn toàn cách trả lương. Theo chính sách mới lương sẽ được trả theo sức lao động và thưởng xứng đáng với sự đóng góp của mỗi nhân viên. Cách tình lương mới làm quỹ lương của ngân hàng Saconbank tăng thêm 33%. Nhưng chủ tịch hội đồng quản trị Saconbank, ông Đặng Văn Thành đã nói: “ Muốn tạo một đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp ngân hàng phải trả công cho họ xứng đáng. Con người là tài sản vô giá của doanh nghiệp. Đối với chúng tôi đây chính là đầu tư chứ không phải chi phí tăng thêm”.
(Theo bài “Khi tăng lương là tăng đầu tư”, tác giả Thục Đoan, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 50-2004(730) ngày 09/12/2004.)
Tăng lương nhằm đảm bảo sự duy trì nguồn nhân lực của mỗi tổ chức nhằm giữ chân nguồn nhân lực có chất lượng cao tránh được dịch chuyển vị trí làm việc. Đảm bảo cân đối giữa lợi nhuận của tổ chức và thu nhập của người lao động hoàn thành mục tiêu của tổ chức và đáp ứng đủ nhu cầu của người lao động.
Tăng lương, thưởng có các biện pháp khuyến khích đối với lao động có năng suất cao, có sáng kiến cải tiến kỹ thuật mang lại lợi nhuận lớn cho tổ chức, được đề bạt và có cơ hội thăng tiến dẫn đến động lực tăng khả năng cạnh tranh giữa các vị trí trong nội bộ tổ chức. Ở Việt Nam hiện nay do thu nhập bình quân đầu người còn thấp, do vậy các yếu tố tiền lương, thưởng và các phúc lợi xã hội chính là yếu tố thu hút được các lao động có kỹ năng, tay nghề cao.
Đầu tư tăng lương cho nguồn nhân lực còn làm nâng cao nhu cầu đào tạo và tự đào tạo đảm bảo nguồn nhân lực có kỹ năng và trình độ phù hợp với sự phát triển của tổ chức. Chính điều này giảm các chi phí như tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực mới. tránh được các hiện tượng thừa hoặc thiếu nguồn nhân lực cho các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn của tổ chức.
Ví dụ tại công ty FPT có rất nhiều chương trình nhằm phát triển nhân viên
Công nghệ đòi hỏi sự thay đổi và sáng tạo không ngừng, để làm được điều đó FPT đã xây đắp nên các thế hệ nhân viên không ngừng học hỏi và phấn đấu đưa FPT đến hết thành công này đến thành công khác. Năm 2015, FPT đã đầu tư 71,4 tỷ đồng cho các hoạt động đào tạo và chương trình đào tạo nội bộ với 195.240 lượt người được đào tạo.
Có thể điểm qua một số chương trình đào tạo như:
Đào tạo tân binh: 100% nhân viên mới được tham gia khóa học đào tạo định hướng nhằm bước đầu làm quen với công việc
Đào tạo cán bộ công nghệ: Thường xuyên tổ chức đào tạo cập nhật những xu hướng công nghệ mới, đào tạo thi chứng chỉ của những hãng công nghệ hàng đầu để đội ngũ công nghệ nâng cao trình độ và khả năng sáng tạo.
Đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng chuyên môn: Đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng chuyên môn Định kỳ hàng năm, nhân viên được đào tạo nâng cao về kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ để đáp ứng nhu cầu công việc.
Đào tạo lực lượng cán bộ kế cận: Ưu tiên nguồn lực để đào tạo cán bộ nòng cốt trở thành lực lượng quản lý, lãnh đạo kế cận, phục vụ nhu cầu phát triển dài hạn của công ty (Chính sách cho người lao động – công ty FPT)
Tuy nhiên để tránh lãng phí trong đào tạo các doanh nghiệp cần phải nắm bắt xem sự tâm huyết và nhiệt tình với doanh nghiệp hay không? Quá trình nhân viên áp dụng thành công những gì đã học vào công việc thì phải có hai điều kiện: đủ năng lực áp dụng và muốn áp dụng.
Khá nhiều quan điểm nhận định cho rằng tiền lương không phải là yếu tố duy nhất quyết định tới nguồn lực. Ngoài tiền lương còn môi trường làm việc, điều kiện thăng tiến, văn hoá của tổ chức là những yếu tố môi trường làm viêc ảnh hưởng quyết định đến việc đảm bảo và duy trì nguồn nhân lực điều này yêu cầu các doanh nghiệp phải đầu tư như thế nào để có được môi trường làm việc tốt nhất cho người lao động, nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực.
Môi trường làm việc tốt là môi trường làm việc mà người lao động cảm thấy hứng thú với công việc của mình trong môi trường đó. Khi đó yếu tố tiền lương không còn là yếu tố quan trọng nhất. Đảm bảo môi trường làm việc tốt nhất thoải mái nhất không chịu nhiều áp lực về các điều kiện môi trường đảm bảo cho nhân viên dồn sức và tập trung cao vào công việc mang lại hiệu quả cao trong công việc.
Ví dụ: Điển hình như công cụ tìm kiếm Google luôn nằm trong danh sách những công ty đáng đầu quân nhất thế giới. Môi trường làm việc lý tưởng và những chế độ đãi ngộ “trong mơ” khiến việc trở thành nhân viên của Google luôn là mơ ước của nhiều người.
Trang The Richest điểm qua những chế độ đãi ngộ mà Google dành cho nhân viên:
1. Nhân viên Google được ăn uống hoàn toàn miễn phí. Nhà ăn của công ty được phục vụ bởi các đầu bếp có tay nghề cao, đem đến những bữa ăn lành mạnh và ngon miệng mỗi ngày.
2. Trong văn phòng Google thậm chí có luôn cả tiệm cắt tóc.
3. Google áp dụng chương trình cho phép nhân viên giới thiệu bạn bè, người thân làm ứng viên trong các đợt tuyển dụng.
4. Nhân viên Google mới sinh con được thanh toán đến 500 USD số tiền mua thức ăn bên ngoài mang về nhà.
5. Nhân viên Google có thể nghỉ ngơi và giải trí ngay trong văn phòng, với bàn chơi billiard, chơi leo núi, bể bơi, khu vực chơi bóng chuyền bãi biển, các trò chơi video, bóng đá, tennis
6. Nhân viên Google được phép mang thú cưng của họ tới văn phòng.
7. Trong văn phòng của Google có cả máy giặt lẫn máy sấy quần áo. Thậm chí cả bột giặt cũng miễn phí. Ngoài ra, còn có cả dịch vụ giặt khô là hơi.
8. Các phòng chống stress là thứ có mặt trong văn phòng của công cụ tìm kiếm lớn nhất thế giới. Những căn phòng đặc biệt dạng như “con nhộng” này được thiết kế hoàn toàn cách âm và ánh sáng.
9. Nhân viên Google có thể dùng những chiếc xe scooter chạy điện để đi lại giữa các bộ phận trong văn phòng.
10. Google có xe bus để đưa nhân viên tới văn phòng hoặc từ văn phòng đi ra ngoài. Trên những chiếc xe bus này có Wi-Fi miễn phí (Theo bài “sướng như làm nhân viên google”, tác giả An Huy, Báo VnEconomy, ngày 02/01/2013.)
Ngoài ra các doanh nghiệp cũng dần chú trọng nhiều đến việc chăm sóc sức khoẻ y tế và bảo hộ lao động đối với các trường hợp lao động trong môi trường nặng nhọc và độc hại. Nhằm duy trì và đảm bảo sức khoẻ tốt nhất cho người lao động đảm bảo hoàn thành các mục tiêu của doanh nghiệp.
Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay với dân số hơn 90 triệu dân trong đó có thể chia thành nhân lực phổ thông và nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực nước ta không thiếu nhân lực phổ thông mà thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Đứng trước các xu thế hội nhập quốc tế yêu cầu đặt ra cần phải quan tâm đúng mức, có các chương trình đầu tư và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để có thể khai thác sử dụng có hiệu quả các tiềm năng mà nguồn nhân lực mang lại.
Về vĩ mô, đầu tư và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần phát triển kinh tế đất nước, Trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đầu tư và phát triển nguồn nhân lực được coi là một trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời phát triển nguồn nhân lực trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Về vi mô, đầu tư và phát triển nguồn nhân lực tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Đào tạo và khai thác sử dụng nguồn nhân lực mang lại lợi nhuận, hiệu quả cao trong công việc của các tổ chức, doanh nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách Lợi thế cạnh tranh quốc gia – Tác giả Michael E. Porter
2. Sách Quản trị nguồn nhân lực – Tác giả PGS. TS Trần Kim Dung
3. Giáo trình quản trị nguồn nhân lực – Tác giả TS. Phạm Phi Yến
4. Website Danthanh.vn
Và một số bài báo điện tử khác.