Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển Kinh tế - xã hội. Sự xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong báo cáo chính trị của Đại hội IX không chỉ là khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế mà còn là sự đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng Nhà nước kiểu mới, một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Khởi đầu từ cách mạng tháng Tám năm 1945. Cách mạng tháng Tám thành công, bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước toàn dân đồng bào ngày 2/9/1945 đã khẳng định quyết tâm của toàn dân tộc Việt Nam không chỉ trong mục tiêu độc lập dân tộc mà còn trong mục tiêu phấn đấu vì một chế độ pháp quyền độc lập dân chủ,.
Trung thành với mục tiêu dân chủ, dân quyền, dân sinh, ngay sau khi dành được độc lập, dân tộc Việt Nam đã bắt tay vào xây dựng một bản Hiến pháp. Ngay phiên họp đầu tiên của Chính phủ giữa muôn vàn khó khăn thách thức, Hồ Chí Minh đã đề xuất một trong những nhiệm vụ cấp bách là "phải có một hiến pháp dân chủ". Người viết: ". Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ,.".
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chủ Tịch, Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc Viện Nam và trong lịch sử dân tộc Đông Nam Á đã được xây dựng và thông qua. Với Hiến pháp năm 1946 chủ nghĩa lập hiến và quyền con người từ các giá trị tư tưởng đã trở thành các giá trị pháp luật hiện thực trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Những quy định của Hiến pháp năm 1946 là những chuẩn mực hiến định đầu tiên cho việc xây dựng Nhà nước Pháp quyền ở Việt Nam.
Đã hơn sáu mươi năm trôi qua, 4 bản Hiến pháp đã lần lượt thông qua tương ứng với các giai đoạn phát triển của cách mạng nước ta. Vượt lên tất cả sự thăng trầm, phức tạp của thời cuộc, mỗi một bản Hiến pháp, kể cả Hiên pháp 1946, Hiên pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992. Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung 2001 và tiếp tục sửa đổi năm 2010) là một mốc quan trọng trong quá trình xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền XHCN của chúng ta.
Tuy nhiên quá trình xây dựng và tăng cường Nhà nước trong mấy chục năm qua cho thấy, hàng loạt vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Nhà nước vẫn chưa được tổng kết làm rõ. Do vậy, các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước được triển khai trong nhiều giai đoạn lịch sử vẫn chưa đưa lại các kết quả mong muốn. Sự bất cập trong tổ chức bộ máy Nhà nước và cơ chế vận hành của bộ máy này đang cản trở việc phát huy vai trò của Nhà nước ta trong cơ chế kinh tế mới. Nhận thức lý luận về chế độ Pháp quyền trong hoạt động Nhà nước và xã hội vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển đất nước hiện nay và do vậy chưa tạo lập được cơ sở khoa học vững chắc cho việc tìm kiếm các giải pháp cải cách thực tiễn với đời sống Nhà nước. Chính vì thế sự nghiên cứu lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền đang là một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay.
13 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4046 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nhà nước pháp quyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển Kinh tế - xã hội. Sự xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong báo cáo chính trị của Đại hội IX không chỉ là khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế mà còn là sự đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng Nhà nước kiểu mới, một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Khởi đầu từ cách mạng tháng Tám năm 1945. Cách mạng tháng Tám thành công, bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước toàn dân đồng bào ngày 2/9/1945 đã khẳng định quyết tâm của toàn dân tộc Việt Nam không chỉ trong mục tiêu độc lập dân tộc mà còn trong mục tiêu phấn đấu vì một chế độ pháp quyền độc lập dân chủ,....
Trung thành với mục tiêu dân chủ, dân quyền, dân sinh, ngay sau khi dành được độc lập, dân tộc Việt Nam đã bắt tay vào xây dựng một bản Hiến pháp. Ngay phiên họp đầu tiên của Chính phủ giữa muôn vàn khó khăn thách thức, Hồ Chí Minh đã đề xuất một trong những nhiệm vụ cấp bách là "phải có một hiến pháp dân chủ". Người viết: "... Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ,...".
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chủ Tịch, Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc Viện Nam và trong lịch sử dân tộc Đông Nam Á đã được xây dựng và thông qua. Với Hiến pháp năm 1946 chủ nghĩa lập hiến và quyền con người từ các giá trị tư tưởng đã trở thành các giá trị pháp luật hiện thực trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Những quy định của Hiến pháp năm 1946 là những chuẩn mực hiến định đầu tiên cho việc xây dựng Nhà nước Pháp quyền ở Việt Nam.
Đã hơn sáu mươi năm trôi qua, 4 bản Hiến pháp đã lần lượt thông qua tương ứng với các giai đoạn phát triển của cách mạng nước ta. Vượt lên tất cả sự thăng trầm, phức tạp của thời cuộc, mỗi một bản Hiến pháp, kể cả Hiên pháp 1946, Hiên pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992. Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung 2001 và tiếp tục sửa đổi năm 2010) là một mốc quan trọng trong quá trình xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền XHCN của chúng ta.
Tuy nhiên quá trình xây dựng và tăng cường Nhà nước trong mấy chục năm qua cho thấy, hàng loạt vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Nhà nước vẫn chưa được tổng kết làm rõ. Do vậy, các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước được triển khai trong nhiều giai đoạn lịch sử vẫn chưa đưa lại các kết quả mong muốn. Sự bất cập trong tổ chức bộ máy Nhà nước và cơ chế vận hành của bộ máy này đang cản trở việc phát huy vai trò của Nhà nước ta trong cơ chế kinh tế mới. Nhận thức lý luận về chế độ Pháp quyền trong hoạt động Nhà nước và xã hội vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển đất nước hiện nay và do vậy chưa tạo lập được cơ sở khoa học vững chắc cho việc tìm kiếm các giải pháp cải cách thực tiễn với đời sống Nhà nước. Chính vì thế sự nghiên cứu lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền đang là một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay.
Vậy về Nhà nước pháp quyền và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay là:
PHẦN I
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1. Khái niệm nhà nước pháp quyền và những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
1.1 Khái niệm:
Trong việc nghiên cứu về nhà nước và pháp luật, vấn đề nhà nước pháp quyền trở thành mối quan tâm đặc biệt của nhiều tác giả là những người làm công tác thực tiễn cũng như nghiên cứu khoa học pháp lý hiện nay ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Do cách tiếp cận vấn đề hoặc nhận định đánh giá vấn đề ở góc độ khác nhau, một số vấn đề rất cơ bản liên quan đến nhà nước pháp quyền vẫn chưa có nhận thức thống nhất hoặc chưa được làm sáng tỏ. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đều thống nhất cho rằng: dưới góc độ chính trị - xã hội và phân tầng giai cấp xã hội, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mới, thoát ly các kiểu nhà nước mà lịch sử nhân loại đã chứng kiến là: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Vậy Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân.
1.2 Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền:
- Nhà nước pháp quyền có sự ngự trị cao nhất của pháp luật.
+ Luật pháp là tiêu chuẩn cao nhất, là căn cứ cơ bản nhất, là công cụ quản lý chủ yếu để quản lý mọi hoạt động của xã hội và công dân.
+ Quyền lực của pháp luật vượt trên quyền lực của mọi tổ chức chính trị xã hội hay của mọi cá nhân.
Đây là đặc điểm tiêu biểu nhất về phương diện pháp lý để xác định một nhà nước nào đó có phải là nhà nước pháp quyền hay không và là nhà nước pháp quyền ở trình độ nào.
- Quyền lực nhà nước phải thể hiện ý chí và lợi ích của đại đa số nhân dân
+ Thực hiện chế độ dân chủ trong việc thiết lập quyền lực.
+ Mỗi cá nhân đều là công dân tự do, có quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, được quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm.
+ Pháp luật chỉ nghiêm cấm những hành vi xâm hại đến lợi ích của các cá nhân hay tổ chức xã hội.
- Nhà nước pháp quyền có sự bảo đảm thực tế mối quan hệ hữu cơ về quyền và trách nhiệm giữa nhà nước và công dân.
+ Quyền công dân thuộc về trách nhiệm của nhà nước và ngược lại, quyền của nhà nước thuộc về trách nhiệm của công dân.
+ Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước mọi công dân về những vi phạm pháp luật của mình, làm phương hại đến lợi ích của công dân, của các tổ chức trong xã hội. Ngược lại, côg dân và các tổ chức trong xã hội phải thực hiện các nghĩa vụ và chịu trách nhiệm về những hành vi của mình theo quy định của pháp luật.
Ngoài ba đặc trưng chung của mọi nhà nước pháp quyền đã nêu ở trên cũng có quan niệm cho rằng nguyên tắc “ Tam quyền phân lập” cũng là nguyên tắc đặc trưng của mọi nhà nước pháp quyền. Theo nguyên tắc này, quyền lực nhà nước được phân thành ba nhánh quyền lực, đó là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
2. Tư tưởng triết học về nhà nước pháp quyền trong lịch sử
Những tư tưởng coi trọng pháp luật trong cai trị và quản lý xã hội đã xuất hiện từ thời cổ đại phương Đông (Trung Hoa) và phương Tây (Hy Lạp). Đó là Tuân Tử, Hàn Phi... Hêraclít, Platôn, Arixtốt...
Mặc dù các tư tưởng triết học về nhà nước và pháp quyền đã có từ rất sớm trong lịch sử nhưng lý thuyết triết học về nhà nước và pháp quyền đạt tới trình độ và lý thuyết về nhà nước pháp quyền hoàn chỉnh thì chỉ bắt đầu từ thời cận đại Tâu Âu. Đó cũng là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh chính trị giành quyền lực nhà nước giữa hai giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến.
Thích ứng với nhu cầu lịch sử ấy có các nhà lý luận nổi tiếng như:
Nhà triết học Hà Lan -Xpinôda là người sáng lập ra lý thuyết về “pháp quyền tự nhiên” cho rằng: Nhà nước pháp quyền là kết quả của những sự thỏa thuận giữa con người với nhau phù hợp với quyền tự nhiên vốn có của mình và phù hợp với quy luật tự nhiên. Theo lý thuyết này, một khi pháp luật phù hợp với quy luật tự nhiên thì cũng có nghĩa nó phù hợp với bản tính tự nhiên của con người. Theo Ông cần phải hạn chế quyền lực của nhà nước bằng những đòi hỏi tự do của con người và cần phải có sự phân biệt rõ ràng giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý.
Nhà triết học người duy vật người Anh-Lốccơ cũng đứng trên quan điểm pháp quyền tự nhiên của con người mà cho rằng “Luật tự nhiên bắt nguồn từ sự liên kết của con người thành cộng đồng theo một quy luật tự nhiên khách quan. Trong sự liên kết đó, con người thỏa thuận với nhau để lập nên nhà nước như là một lực lượng thể hiện ý chí chung. Cũng vì thế mà nhà nước trở thành cơ quan quyền lực chung của xã hội mà mỗi công dân phải tuân theo quyền lực của nó. Ông cũng là một trong những nhà tư tưởng triết học đặt nền móng lý luận cho sự ra đời của lý thuyết tam quyền phân lập tư sản.
Tuy nhiên nói đến lý thuyết về tam quyền phân lập và khế ước xã hội là nói đến các nhà tư tưởng khai sáng ra là Môngtexkiơ và Rútxô người Pháp. Lý thuyết của hai nhà tư tưởng này đã ảnh hưởng lớn tới các lý thuyết pháp quyền của các nhà triết học nước Đức ở cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, đó là Cantơ và Hêghen.
Theo Cantơ thì con người là chủ thể của quyền lực; Quyền lực nhà nước được tạo nên bởi bản tính tuyệt đối của con người, nên nhà nước phục tùng theo pháp luật, tức là phục tùng bản tính tuyệt đối của con người; và mỗi con người phải phục tùng mệnh lệnh tuyệt đối.
Còn theo Hêghen thì nhà nước và pháp quyền là sự thể hiện ý niệm (đạo đức) tuyệt đối và ý chí tự do. Theo Ông, pháp luật trong nhà nước pháp quyền chính là hiện thực của tự do và là tồn tại thực tế của ý chí tự do.
PHẦN II
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XHCN VIỆT NAM HIỆN NAY
Hiện nay, Việt Nam đã có đủ các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội để từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân, có sắc thái riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, truyền thống, văn hóa của Việt Nam. Cần nhận thức rằng việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là quá trình lâu dài, phải được tiến hành từng bước, chia thành nhiều giai đoạn, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi giai đoạn tương ứng với một mức độ phát triển của xã hội và của nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cần quán triệt những vấn đề có tính nguyên tắc sau:
1 - Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Đó là Nhà nước trong đó bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vì thế quyền lực nhà nước là thống nhất, không tam quyền phân lập nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện lạm quyền từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương. Đó là Nhà nước mà mọi tổ chức (kể cả tổ chức đảng), hoạt động phải dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình. Vì vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có quan hệ khăng khít với xây dựng xã hội công dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động nội lực của toàn thể nhân dân, của tất cả các thành phần kinh tế vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội công dân là bộ ba hợp thành không thể tách rời, là điều kiện và tiền đề cho nhau, là bảo đảm và kết quả của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2 - Hiến pháp và pháp luật nước ta ghi nhận quyền của công dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị, đề đạt nguyện vọng, yêu cầu của mình với các cơ quan nhà nước. Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền khiếu nại, tố cáo, v.v.. Các quyền và sự tự do đó trong nhiều trường hợp là điều kiện để nhân dân kiểm tra hoạt động của Nhà nước, nhưng trước hết đó là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện dân chủ. Vì vậy, cần chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân.
Quyền lực nhà nước ở nước ta là quyền lực nhà nước thống nhất. Sự thống nhất đó là ở mục tiêu chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Xét theo cơ chế tổ chức thì quyền lực nhà nước tối cao, tức là những chức năng và thẩm quyền cao nhất thuộc về những cơ quan đại diện cho nhân dân. Ở nước ta, đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội có thẩm quyền lập hiến và lập pháp; quyền giám sát tối cao; quyền quyết định kế hoạch phát triển đất nước; quyền lập ra các cơ quan và chức vụ quốc gia cao nhất. Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
3 - Một trong những điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động lập pháp đang đứng trước những nhiệm vụ mới mẻ và phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Lập pháp phải bảo đảm tính khả thi của các quy định pháp luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống. Hoạt động lập pháp phải vừa bảo đảm chất lượng, vừa theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Muốn vậy, cần tổ chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp. Quy trình đó phải vừa bảo đảm phản ánh được sự phát triển sống động của đời sống xã hội trong các lĩnh vực, lại vừa bảo đảm tính chuyên môn pháp lý của các quy định để có sự phối hợp chặt chẽ giữa khâu làm luật với việc ban hành các văn bản dưới luật, tổ chức thực hiện pháp luật.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt động của bộ máy hành pháp của nước ta còn nhiều nhược điểm, còn nhiều mặt chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Tổ chức hành pháp chưa thông suốt, còn yếu trong việc xử lý những mối liên kết dọc và ngang, thậm chí còn có hiện tượng cục bộ. Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch, làm trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu và dựa dẫm. Thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ. Thái độ làm việc và trách nhiệm trước dân của đội ngũ cán bộ, công chức vẫn còn là vấn đề đáng nói hiện nay.
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta trước sau như một đều khẳng định các yêu cầu về bình đẳng, công bằng, về sự độc lập của toà án khi xét xử, bảo đảm mọi vi phạm đều bị xử lý, tăng cường bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân. Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động tư pháp đã trở thành một hoạt động hết sức quan trọng của Nhà nước ta, thể hiện vai trò mới, những đòi hỏi và những nhiệm vụ mới của lĩnh vực hoạt động đó. Trên cơ sở những thành tựu và kinh nghiệm đã có, cần đẩy mạnh cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị (khóa IX) mà những nội dung cơ bản phải là cải cách hoạt động xét xử và cải cách các thủ tục tố tụng, nâng cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm chính trị - pháp lý của cán bộ tư pháp.
4 - Một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phối hợp quyền lực nhà nước và cải cách hành chính là sự phân công, phân cấp giữa trung ương và địa phương. Sự phân công, phân cấp ấy phải nhằm khuyến khích và nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Việc phân công và phân cấp giữa trung ương và địa phương phải dựa trên nền tảng của một hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, có tính chuyên nghiệp cao và đủ sức giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đây đang là một khâu yếu.
5 - Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với việc đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ và mọi tầng lớp nhân dân. Cho nên, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích và tạo điều kiện cho các hoạt động của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của họ, sự khuyến khích tính tích cực pháp lý phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đổi mới và cải cách hành chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật và pháp chế còn đặt ra nhiệm vụ phải bằng mọi cách nâng cao sự hiểu biết pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên quyết chống quan liêu và tham nhũng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
6 - Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn luôn cần đến sự kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu. Các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng và hoàn thiện ở mức cao nhất, bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân và đất nước, pháp luật luôn luôn được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương được giữ vững. Đối với các cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt nhất để các cơ quan đó thực hiện đúng chức trách và thẩm quyền của mình, đồng thời là điều kiện phối hợp các hoạt động một cách có hiệu quả. Đến lượt mình, các hoạt động, các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải có sự phân công, phối hợp đầy đủ và hoàn thiện hơn.
7 - Nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng, quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh mơ ước và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng. Trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân hiện nay, về mặt nhận thức, cần khẳng định các mối quan hệ chủ đạo giữa các nguyên tắc và yêu cầu của Nhà nước pháp quyền với hệ thống chính trị duy nhất một đảng lãnh đạo; với phương thức tổ chức nhà nước tập trung có phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; với việc tôn trọng các quyền tự do của công dân và nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân trong việc bảo đảm một xã hội trật tự, kỷ cương.
Về nguyên tắc, Nhà nước pháp quyền không mâu thuẫn với hệ thống chính trị một đảng lãnh đạo. Vấn đề là ở chỗ, bản chất của đảng cầm quyền thế nào, mục tiêu chính trị của nó có phải vì lợi ích chung của dân tộc, vì con người hay không và do đó có sẵn sàng tuân theo những quy định của pháp luật hay không; có đủ phẩm chất đạo đức để vượt qua các cám dỗ quyền lực to lớn mà một đảng cầm quyền duy nhất có nhiều khả năng gặp phải hay không và nó có đặt ra và thực hiện được những kỷ luật nghiêm khắc cho chính mình hay không, v.v...
Thực tiễn phát triển của xã hội ta, đất nước ta xác nhận và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Hơn 74 năm qua, Đảng thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của toàn dân tộc. Đường lối của Đảng là sự thể hiện nhận thức của toàn xã hội về các quy luật khách quan của sự phát triển đất nước. Đó chính là căn cứ, là điều kiện cần thiết để chúng ta hoàn thiện pháp luật. Hiến pháp của nước ta đã ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng phù hợp với những nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, căn cứ vào kinh nghiệm thực tiễn và yêu cầu của xã hội, cần cụ thể hóa hơn nữa mối quan hệ lãnh đạo của Đảng, mà cụ thể là các tổ chức đảng và cấp ủy các cấp, cán bộ lãnh đạo Đảng với các cơ quan nhà nước và các chức vụ nhà nước các cấp. Hoàn thiện những cơ sở pháp lý đó sẽ giúp tránh được những