Quá trình cung ứng các nguồn vốn cho hoạt động của các doanh nghiệp được gọi là sự tài
trợ, bao gồm toàn bộ các hoạt động tạo nguồn và đảm bảo các nguồn lực tài chính để doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả. Như vậy tài trợ ở đây khác với hoạt động tài trợ mang tính trợ cấp,
trợ giúp hoặc cho không.
Vốn là điều kiện không thể thiếu để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn phản ánh nguồn lực tài chính được
đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Trong điièu kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp
đựoc đa dạng hóa. Tùy theo điều kiện phát triển của thị trường tài chính của một quốc gia, tùy
theo loại hình của doanh nghiệp và các đặc điểm hoạt động kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp có
phương thức tạo vốn và huy động vốn khác nhau.
Vì vậy để lựa chọn được nguồn vốn và phương thức huy động vốn phù hợp có ý nghĩa rất
quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn đó
nhóm tôi đã chọn đề tài: “Nhu cầu tài trợ vốn, những thuận lợi và khó khăn khi huy động vốn
của Công ty cổ phần ACC-244”
Đề tài gồm có ba chương:
Chương I: Nhu cầu tài trợ của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chương II: Thực trạng nhu cầu vốn kinh doanh tại công ty cổ phần ACC-244
Chương III: Giải pháp tăng huy động vốn cho doanh nghiệp
29 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1964 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nhu cầu tài trợ vốn, những thuận lợi và khó khăn khi huy động vốn của Công ty cổ phần ACC-244, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN SAU ĐẠI HỌC
-------------------------
Tiểu luận
“Nhu cầu tài trợ vốn, những thuận lợi và khó khăn khi huy
động vốn của Công ty cổ phần ACC-244”
Nhóm học viên thực hiện:
1. Tống Quốc Tuấn MSHV: CH210535
2. Phạm Văn Tùng MSHV: CH210537
3. Anousith Phoutthavong MSHV: CH211010
Lớp: Tài chính - Ngân hàng/CHK21E
Hà Nội 2013
LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình cung ứng các nguồn vốn cho hoạt động của các doanh nghiệp được gọi là sự tài
trợ, bao gồm toàn bộ các hoạt động tạo nguồn và đảm bảo các nguồn lực tài chính để doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả. Như vậy tài trợ ở đây khác với hoạt động tài trợ mang tính trợ cấp,
trợ giúp hoặc cho không.
Vốn là điều kiện không thể thiếu để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn phản ánh nguồn lực tài chính được
đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Trong điièu kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp
đựoc đa dạng hóa. Tùy theo điều kiện phát triển của thị trường tài chính của một quốc gia, tùy
theo loại hình của doanh nghiệp và các đặc điểm hoạt động kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp có
phương thức tạo vốn và huy động vốn khác nhau.
Vì vậy để lựa chọn được nguồn vốn và phương thức huy động vốn phù hợp có ý nghĩa rất
quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn đó
nhóm tôi đã chọn đề tài: “Nhu cầu tài trợ vốn, những thuận lợi và khó khăn khi huy động vốn
của Công ty cổ phần ACC-244”
Đề tài gồm có ba chương:
Chương I: Nhu cầu tài trợ của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chương II: Thực trạng nhu cầu vốn kinh doanh tại công ty cổ phần ACC-244
Chương III: Giải pháp tăng huy động vốn cho doanh nghiệp
CHƯƠNG I
NHU CẦU TÀI TRỢ CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1. Khái quát chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N)
1.1. Quan niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thực tế trên thế giới, các nước có quan niệm rất khác nhau về doanh nghiệp vừa và nhỏ,
nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khác nhau này là tiêu thức dùng để phân loại quy mô doanh
nghiệp khác nhau. Tuy nhiên trong hàng loạt các tiêu thức phân loại đó có hai tiêu thức được sử
dụng ở phần lớn các nước là quy mô vốn và số lượng lao động.
Mặt khác việc lượng hoá các tiêu thức để phân loại quy mô doanh nghiệp còn tuỳ thuộc
vào những yếu tố như:
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước và những quy định cụ thể phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn.
Trong ngành nghề khác nhau thì chỉ tiêu độ lớn của các tiêu thức cũng khác nhau.
Điều này ta có thể thấy rõ thông qua số liệu ở bảng sau:
Nguồn: Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam – NXB CTQG, tr2
Tại Việt Nam tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ được thể hiện trong nghị định
90/2001/NĐ ngày 23-11-2001 của Chính Phủ. Theo quy định này doanh nghiệp vừa và nhỏ được
định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động
trung bình hàng năm không quá 30 người”.
Như vậy, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh và
thoả mãn một trong hai điều kiện trên đều được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo cách phân
loại này ở Việt Nam có khoảng 88% trong tổng số doanh nghiệp hiện có là doanh nghiệp vừa và
nhỏ, cụ thể là 76% các doanh nghiệp nhà nước thuộc nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khu
vực kinh tế tư nhân doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng 93% xét về vốn và 95% xét về lao
động so với tổng số doanh nghiệp của cả nước.
1.2. Đặc trưng hoạt động kinh doanh
1.2.1. Tính chất hoạt động kinh doanh
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung ở nhiều khu vực chế biến và dịch vụ, tức là
gần với người tiêu dùng hơn. Trong đó cụ thể là:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là vệ tinh, chế biến bộ phận chi tiết cho các doanh nghiệp lớn
với tư cách là tham gia vào các sản phẩm đầu tư.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện các dịch vụ đa dạng và phong phú trong nền kinh tế
như các dịch vụ trong quá trình phân phối và thương mại hoá, dịch vụ sinh hoạt và giải
trí, dịch vụ tư vấn và hỗ trợ.
Trực tiếp tham gia chế biến các sản phẩm cho người tiêu dùng cuối cùng với tư cách là
nhà sản xuất toàn bộ.
Chính nhờ tính chất hoạt động kinh doanh này mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ có lợi thế
về tính linh hoạt. Có thể nói tính linh hoạt là đặc tính trội của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhờ
cấu trúc và quy mô nhỏ nên khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh doanh thậm chí cả
địa điểm kinh doanh được coi là mặt mạnh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.2.2. Về nguồn lực vật chất
Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị hạn chế bởi nguồn vốn, tài nguyên, đất đai
và công nghệ. Sự hữu hạn về nguồn lực này là do tôn chỉ và nguồn gốc hình thành doanh nghiệp.
Mặt khác còn do sự hạn hẹp trong các quan hệ với thị trường tài chính – tiền tệ, quá trình tự tích
luỹ thường đóng vai trò quyết định của từng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhận thức về vấn đề này các quốc gia đang tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ
để họ có thể tham gia tốt hơn trong các tổ chức hỗ trợ để khắc phục sự hạn hẹp này.
1.2.3. Về năng lực quản lý điều hành
Xuất phát từ nguồn gốc hình thành, tính chất, quy mô... các quản trị gia doanh nghiệp vừa
và nhỏ thường nắm bắt, bao quát và quán xuyến hầu hết các mặt của hoạt động kinh doanh.
Thông thường họ được coi là nhà quản trị doanh nghiệp hơn là nhà quản lý chuyên sâu. Chính vì
vậy mà nhiều kỹ năng, nghiệp vụ quản lý trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn rất thấp so với
yêu cầu.
1.2.4. Về tính phụ thuộc hay bị động
Do các đặc trưng kể trên nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị thụ động nhiều hơn ở thị
trường. Cơ hội đánh thức, dẫn dắt thị trường của họ rất nhỏ. Nguy cơ bị phá sản, phó mặc được
minh chứng bằng con số doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển. Chẳng hạn ở Mỹ, bình quân mỗi ngày có tới 100 doanh nghiệp vừa và nhỏ phá
sản (đương nhiên lại có số doanh nghiệp tương ứng phù hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới
xuất hiện), nói cách khác các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tuổi đời hoạt động trung bình thấp.
1.3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Việt Nam
DNV&N ở Việt Nam nói riêng cũng như nhiều nước trên thế giới đóng một vai trò rất
quan trọng đối với nền kinh tế. Theo thống kê tại Việt Nam, trong tổng số khoảng 200.000 doanh
nghiệp thì khối các DNV&N chiếm khoảng 88%, với những đặc điểm riêng có, khu vực
DNV&N thể hiện qua một số vai trò chủ yếu sau:
Một là, DNV&N có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế
Ở mỗi nước, tỷ lệ phát triển hợp lý giữa các doanh nghiệp lớn và DNV&N là tuỳ thuộc
vào thực trạng kinh tế xã hội ở từng thời kỳ. Thông thường các doanh nghiệp lớn hoạt động
trong một số ngành nòng cốt với kỹ thuật hiện đại, vốn lớn. Còn các DNV&N hoạt động trong
những ngành vốn ít, sử dụng nhiều lao động như các ngành công nghiệp nhẹ hoặc các ngành giữ
vai trò bổ trợ cho các doanh nghiệp lớn. Hai khu vực doanh nghiệp này luôn có tác động tương
hỗ nhằm phát huy thế mạnh của nhau, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của cả
nước. Ở Việt Nam, theo đánh giá của Viện nghiên cứu và quản lý Trung ương trong những năm
qua khối DNV&N đã đóng góp khoảng 30% GDP của cả nước. Ngoài ra, các DNV&N của nước
ta còn cung cấp 100% sản phẩm trong nhiều ngành, đặc biệt là những ngành công nghiệp thủ
công truyền thống như chiếu cói, giầy dép. Ngày nay, khối các DNV&N đang ngày càng lớn
mạnh, với sự phát triển này chắc chắn nó đang và sẽ góp phần không nhỏ vào tăng trưởng và
phát triển kinh tế.
Hai là, góp phần làm năng động, linh hoạt, tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế
Các DNV&N hoạt động với quy mô vốn không lớn nên có ưu thế nổi bật là có thể
chuyển hướng kinh doanh nhanh từ những ngành nghề kém hiệu quả sang những ngành nghề
hiệu quả hơn nhằm thoả mãn nhu cầu rất linh hoạt của dân cư. Do lợi thế là linh hoạt và sáng tạo
trong kinh doanh cho nên các DNV&N góp phần làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn.
Hơn nữa, chiếm đa số trong tổng số các doanh nghiệp trong cả nước tham gia vào nền kinh tế
(với tư cách là những chủ thể kinh doanh độc lập), nó sẽ tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ, giảm bớt
khả năng độc quyền của các doanh nghiệp lớn và giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế.
Ba là, DNV&N có vai trò quan trọng đối với quá trình CNH-HĐH và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế
Quá trình phát triển DNV&N cũng là một quá trình cải tiến máy móc, thiết bị, nâng cao
năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường, đến một mức độ nào
đó nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ, làm cho quá trình CNH-HĐH đất nước không chỉ ở
chiều sâu mà cả ở chiều rộng.
Sự mềm mại, linh hoạt của DNN&V tạo ra một cơ cấu kinh tế có tính đổi mới và thích
ứng cao cho nền kinh tế đang trong quá trình đổi mới và phát triển. Cơ cấu ngành, thành phần, cơ
cấu vùng lãnh thổ tạo điều kiện tận dụng và thu hút tốt các nguồn lực cho đầu tư phát triển, thúc
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn
Bốn là, DNV&N góp phần giải quyết công ăn việc làm, từ đó làm giảm tỷ lệ thất
nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê, hiện nay, ở nước ta hằng năm có thêm
khoảng 1,2-1,4 triệu người đến tuổi lao động. Việc tạo thêm việc làm đang là một áp lực xã hội
mạnh đối với Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương. Các DNV&N có đặc điểm chung là
vốn ít, hoạt động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động, thu hút khoảng 50-75% lực
lượng lao động trong các ngành kinh tế đã tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, tăng
thu nhập cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Ở Việt Nam theo báo cáo tổng kết đánh giá 4 năm thi hành Luật doanh nghiệp cho thấy,
trong 4 năm qua ước tính đã có khoảng 1,8-2 triệu chỗ làm việc mới đã được tạo ra nhờ các
doanh nghiệp, trong đó DNV&N đóng góp khoảng 80% chỗ làm việc.
Ngoài ra, phần lớn lao động trong các DNV&N đều xuất thân từ nông nghiệp, nông thôn,
chưa quen với lối sống và làm việc theo phương thức công nghiệp. Vì vậy, ngoài việc đào tạo
nghề, không ít chủ doanh nghiệp còn phải hướng dẫn họ về nếp sống mới, về tính kỷ luật trong
phương thức sản xuất công nghiệp, qua đó góp phần xoá đói giảm nghèo, giảm khoảng cách về
thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và tăng mức độ công bằng trong nền kinh tế.
Năm là, gieo mầm cho các tài năng kinh doanh – là nơi nuôi dưỡng cho các doanh
nghiệp lớn
Sự phát triển của các DNV&N đã có tác dụng đào tạo, chọn lọc các tài năng kinh doanh
trẻ. Với trí tuệ và kinh nghiệm, họ biết cách làm giàu cho bản thân mình và xã hội, kinh nghiệm
quản lý của họ sẽ được nhân ra và truyền bá tới nhiều cá nhân trong cả nước để học hỏi và noi
theo.
Ngoài ra, các DNV&N còn là nền tảng quan trọng để phát triển các doanh nghiệp lớn.
Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, phần lớn các tập đoàn, các tổng công ty lớn đều bắt nguồn
từ DNV&N làm ăn hiệu quả, tiến hành mở rộng sản xuất kinh doanh để phát triển thành các tập
đoàn.
Qua sự phân tích trên ta thấy, khối các DNV&N đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, những đóng góp của khối các doanh nghiệp này
không hề nhỏ. Tuy nhiên hiện nay, các DNV&N đang hoạt động trong một môi trường kinh tế
không hoàn toàn thuận lợi ở cả tầm vĩ mô và vi mô, trong đó gặp rất nhiều khó khăn về công
nghệ sản xuất, mô hình quản lý, kỹ năng của đội ngũ lãnh đạo, đặc biệt phải kể đến sự hạn chế
về vốn đầu tư để tiến hành đổi mới trang thiết bị, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Với số
lượng ngày càng gia tăng thì nhu cầu huy động vốn của khối các DNV&N cũng ngày càng lớn,
trong khi đó các nguồn đáp ứng lại bị hạn chế. Vậy thì, các doanh nghiệp này sẽ phải đối mặt với
nhiều khó khăn về vấn đề huy động vốn phục vụ cho nhu cầu của mình.
2. Nhu cầu huy động vốn của doanh nghiệp
Để có được vốn hoạt động thì doanh nghiệp phải thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn
khác nhau. Huy động vốn chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau hay nói cách khác là
các ràng buộc khác nhau như:
+ Hình thức pháp lý của doanh nghiệp: một doanh nghiệp nhà nước khi huy động vốn phải chịu
sự ràng buộc của các văn bản quản lý Nhà nước về tỷ lệ huy động tối đa có thể (Luật DNNN).
+ Sự vững mạnh về tình hình tài chính nói chung và có khả năng thanh toán nói riêng sẽ là
những điều kiện mà chủ nguồn tài chính chú ý khi xem xét bỏ vốn cho doanh nghiệp.
+ Chiến lược kinh doanh quyết định cầu về vốn và từ đó ảnh hưởng đến lượng vốn cần thiết huy
động của doanh nghiệp.
Xuất phát điểm của chiến lược kinh doanh là cơ sở để huy động vốn. Để thực hiện huy
động vốn thì ta cần phải xác định cầu về vốn của doanh nghiệp. Để dự đoán cầu về vốn của
doanh nghiệp ta có thể sử dụng hai phương pháp:
+ Phương pháp tỷ lệ % trên doanh thu
+ Phương pháp sử dụng các chỉ tiêu tài chính đặc trưng của ngành là cơ sở để làm xuất phát điểm
cho mình. Phương pháp này hay được sử dụng cho những doanh nghiệp mới thành lập hay
những doanh nghiệp đã hoạt động nhưng cần thiết lập lại cơ cấu vốn.
2.1. Các hình thức huy động vốn
Có nhiều cách phân loại nguồn cung ứng vốn cho doanh nghiệp. Nếu căn cứ vào nơi cung
ứng có thể phân loại nguồn cung ứng ở dạng khái quát nhất thành nguồn cung ứng từ nội bộ và
nguồn cung ứng vốn từ bên ngoài. Trên cơ sở đó người ta lại tiếp tục phân loại cụ thể hơn.
2.1.1. Tự cung ứng
a) Khấu hao tài sản cố định: việc xác định mức khấu hao cụ thể phụ thuộc vào thực tiễn
sử dụng tài sản cố định cũng như ý muốn chủ quan của con người. Đối với doanh nghiệp nhà
nước trong chừng mực nhất định phải phụ thuộc ý đồ của Nhà nước, các doanh nghiệp khác có
thể tự lựa chọn thời hạn sử dụng và phương pháp tính khấu hao cụ thể. Trong chính sách tài
chính của mình, doanh nghiệp có thể lựa chọn và điều chỉnh khấu hao tài sản cố định và coi đây
là một nguồn cung ứng vốn bên trong của mình.
b) Tích luỹ tái đầu tư: phụ thuộc vào hai nhân tố cụ thể và tổng số lợi nhuận thu được
trong từng thời kỳ kinh doanh và chính sách phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Đối
với doanh nghiệp Nhà nước toàn bộ lợi nhuận thu được sẽ phải sử dụng cho các khoản:
+ Nộp tiền sử dụng vốn ngân sách nhà nước theo quy định
+ Trả các khoản phải quy định
+ Lập các quỹ đặc biệt
c) Điều chỉnh cơ cấu tài sản: Phương thức này tuy không làm tăng tổng số vốn sản xuất -
kinh doanh nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ
sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết.
2.1.2. Phương thức cung ứng từ bên ngoài
a) Cung ứng từ ngân sách nhà nước:
Với hình thức này doanh nghiệp sẽ nhận được lượng vốn xác định từ ngân sách nhà nước
cấp. Thông thường hình thức này không đòi hỏi nhiều điều kiện ngặt nghèo đối với doanh nghiệp
được cấp vốn như các hình thức huy động vốn khác. Tuy nhiên, càng ngày hình thức này càng bị
thu hẹp cả về quy mô vốn và phạm vi được cấp. Hiện nay đối tượng được hưởng hình thức này là
các DNNN xác định duy trì để đóng vai trò công cụ điều tiết kinh tế; các dự án đầu tư ở những
lĩnh vực sản xuất hàng hoá công cộng, hoạt động công ích mà tư nhân không muốn hoặc không
có khả năng.
b) Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu:
Là hình thức do doanh nghiệp được cung ứng vốn trực tiếp từ thị trường chứng khoán,
Khi có cầu về vốn và lựa chọn hình thức này, doanh nghiệp tính toán và phát hành cổ phiếu bán
trên thị trường chứng khoán. Đặc trưng cơ bản là tăng vốn nhưng không tăng nợ của doanh
nghiệp bởi lẽ những người sở hữu cổ phiếu trở thành cổ đông của doanh nghiệp. Vì lẽ đó nhiều
nhà quản trị học coi hình thức này là nguồn cung ứng nội bộ.
Tuy nhiên chỉ có công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn mới được phát
hành. Và doanh nghiệp phải có nghĩa vụ công khai hoá thông tin tài chính theo Luật doanh
nghiệp.
c) Vay tiền bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn:
Đây là hình thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng. Doanh nghiệp phát hành lượng
vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường có kỳ hạn xác định và bán cho công chúng. Đặc
trưng cơ bản là tăng vốn gắn với tăng nợ của doanh nghiệp. Cũng có những ưu điểm và hạn chế
nhất định.
- Ưu điểm chủ yếu: có thể huy động được một lượng vốn cần thiết, chi phí kinh doanh sử dụng
vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát chặt chẽ như vay ngân
hàng và doanh nghiệp.
- Hạn chế: đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc kỹ thuật tài chính để tránh áp lực nợ đến hạn và
vẫn có lợi nhuận đặc biệt khi kinh tế suy thoái lạm phát cao. Chi phí kinh doanh phát hành trái
phiếu khá cao vì doanh nghiệp cần có sự trợ giúp của ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp phải
tính toán thoả mãn hai điều kiện: tài sản cố định phải nhỏ hơn tổng số vốn và nợ dài hạn của
doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nào thoả mãn các điều kiện theo luật định mới được phép
phát hành trái phiếu.
d) Vay vốn của các ngân hàng thương mại:
Vay vốn từ các ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới các hình
thức cụ thể ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn từ các ngân hàng thương mại. Đây là mối quan hệ
tín dụng giữa một bên đi vay và một bên cho vay. Với hình thức này doanh nghiệp có thể huy
động được một lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các doanh nghiệp cùng tham gia thẩm
định dự án nếu có nhu cầu vay đầu tư lớn. Yêu cầu doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm
phán, chấp nhận các thủ tục thẩm định ngặt nghèo. Nếu doanh nghiệp vay tiền của ngân hàng có
thể bị ngân hàng thương mại kiểm soát các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thời
gian cho vay.
e) Tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp:
Trong hoạt động kinh doanh, quan hệ mua bán trao đổi giữa các doanh nghiệp thông
thường không kết thúc tại một điểm, tức là xuất hiện sự chênh lệch về mặt thời gian giữa dòng
tài chính và dòng vật chất. Thực chất luôn diễn ra đồng thời quá trình doanh nghiệp nợ khách
hàng tiền và chiếm dụng tiền của khách hàng. Nếu tiền doanh nghiệp chiếm dụng của khách
hàng nhiều hơn số tiền doanh nghiệp bị chiếm dụng thì số tiền dôi ra sẽ mang bản chất tín dụng
thương mại hay tín dụng nhà cung cấp. Ngoài tín dụng thương mại còn gồm cả khoản đặt cọc
trước của khách hàng.
Đây là một hình thức tín dụng ngắn hạn quan trọng (thường phải thanh toán trong vòng
30-90 ngày) đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp đang trong thời kỳ
tăng trưởng.
f) Tín dụng thuê mua:
Trong cơ chế thị trường hình thức này được thực hiện giữa một doanh nghiệp có cầu sử
dụng máy móc, thiết bị với một doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua diễn ra khá phổ
biến. Hình thức này có ưu điểm rất cơ bản là giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích,
khi nào doanh nghiệp có cầu về sử dụng máy móc, thiết bị cụ thể mới đặt vấn đề thuê mua.
Doanh nghiệp không chỉ được nhận máy móc thiết bị mà còn được nhận tư vấn đào tạo.
Tuy nhiên cũng có những hạn chế như: chi phí kinh doanh cho việc sử dụng máy móc
thiết bị cao và hợp đồng tương đối phức tạp.
g) Vốn liên doanh, liên kết:
Với phương thức này doanh nghiệp liên doanh, liên kết với một hoặc một số doanh
nghiệp khác nhằm tạo vốn cho hoạt động liên doanh nào đó.
- Ưu điểm: với hình thức này doanh nghiệp sẽ có một lượng vốn cần thiết cho một hoặc một số
hoạt động nào đó mà không tăng nợ.
- Nhược điểm: các bên liên doanh cùng tham gia liên doanh và cùng chia sẽ lợi nhuận thu được.
h) Nguồn vốn ODA:
Đối tác mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm và nhận được nguồn vốn này là các chương
trình hợp tác của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế kh