Tiểu luận Những đặcđiểm cơ bản trong chế độ Cộng Hòa La Mã

Nằm trên bán đảo Ban-can ở phía Nam châu Âu, thuận lợi cho việc thương mại, buôn bán, họ có thể vượt qua Địa Trung Hải tới Cận Đông là Bắc Phi, phía Bắc là Bắc Âu, phía Tây là Tây Âu và Đại Tây Dương, có nhiều thuận lợi cho giao lưu hàng hoá, thương nghiệp, nhiều hải cảng tốt. Đế chế La Mã cai trị một vùng lãnh thổ to lớn, cùng với một lượng khổng lồ về tài nguyên thiên và con người. Vốn dĩ, nền kinh tế của La Mã chủ yếu dự trên nền tảng là nông nghiệp và thương mại. Nông nghiệp phát triển kéo theo thương mại phát triển đã làm thay đổi bán đảo Ý, vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, những người tiểu điền chủ có thể sở hữu những điền trang nho và ôliu rộng lớn. Những tiểu điền chủ không đủ khả năng gây bất ổn về giá cả bởi, Đế chế La Mã đã sát nhập thêm Ai Cập, Sicilia và Tunisia trở thành các chư hầu cung cấp sản vật. Hàng hóa xuất trở lại từ Roma là dầu ôliu và rượu vang

pdf26 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3984 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những đặcđiểm cơ bản trong chế độ Cộng Hòa La Mã, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lịch sử tư tưởng quản lý 1 (*) Lớp QH-2010-X-QL.A 1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ -----o0o----- Tiểu luận Những đặc điểm cơ bản trong chế độ Cộng Hòa La Mã Hà Nội, tháng 11 năm 2011 Lịch sử tư tưởng quản lý 1 (*) Lớp QH-2010-X-QL.A 2 LỜI MỞ ĐẦU Chế độ Cộng hòa La Mã ra đời vào thế kì thứ V trước công nguyên và trong suốt thời gian tồn tại và phát triển nó đã để lại cho nhân loại nhiều bài học quý báu trong nhiều lĩnh vực, trong đó lĩnh vực quản lý cũng đúng rút được rất nhiều bài học, tư tưởng để áp dụng vào thực tiễn. ĐỊA LÝ-KINH TẾ-KỸ THUẬT - Nằm trên bán đảo Ban-can ở phía Nam châu Âu, thuận lợi cho việc thương mại, buôn bán, họ có thể vượt qua Địa Trung Hải tới Cận Đông là Bắc Phi, phía Bắc là Bắc Âu, phía Tây là Tây Âu và Đại Tây Dương, có nhiều thuận lợi cho giao lưu hàng hoá, thương nghiệp, nhiều hải cảng tốt. Đế chế La Mã cai trị một vùng lãnh thổ to lớn, cùng với một lượng khổng lồ về tài nguyên thiên và con người. Vốn dĩ, nền kinh tế của La Mã chủ yếu dự trên nền tảng là nông nghiệp và thương mại. Nông nghiệp phát triển kéo theo thương mại phát triển đã làm thay đổi bán đảo Ý, vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, những người tiểu điền chủ có thể sở hữu những điền trang nho và ôliu rộng lớn. Những tiểu điền chủ không đủ khả năng gây bất ổn về giá cả bởi, Đế chế La Mã đã sát nhập thêm Ai Cập, Sicilia và Tunisia trở thành các chư hầu cung cấp sản vật. Hàng hóa xuất trở lại từ Roma là dầu ôliu và rượu vang. - Công thương nghiệp : chưa có máy móc nhưng nền kinh tế vận hành theo cơ chế hàng hoá thị trường, có chủ nô có trong tay hàng ngàn nô lệ, nền kinh tế thị Lịch sử tư tưởng quản lý 1 (*) Lớp QH-2010-X-QL.A 3 trường La Mã rất phát triển (tương đối giống CNTB thời kỳ cận đại) -> khác hoàn toàn châu á. -Thời kì này La Mã cũng đã có những đóng góp quan trọng về kĩ thuật cho sự phát triển của nền văn minh thế giới: 1.Chế tạo thủy tinh(khoảng thế kỉ đầu trước công nguyên) 2.Sử dụng chì 3.Khai thác than 4.Chế tạo xi-măng. Họ cũng là những người đầu tiên biết đặt các thiết bị như guồng ước nhằm lợi dụng thủy năng và chế tạo ra thuyền buồm. Kỹ nghệ và chế tạo đồ dùng với mức hoạt động khá nhỏ, nhưng khá nhộn nhịp là các công việc khai mỏ và khai thác đá xây dựng, tùy theo mức độ xây dựng vào mỗi triều đại khác nhau. Mức độ sản xuất chỉ có các xi nghiệp nhỏ với vài chục lao động. Tuy nhiên, trong lĩnh vực sản xuất gạch xây dựng cũng có những xí nghiệp lên đến hàng trăm người. Một số nhà viết sử, như Peter Temin, mô tả sự phát triển kinh tế của thời kỳ khởi đầu của La Mã đã thúc đẩy các kỹ nghệ khác và nghệ thuật phát triển, đặc biệt ảnh hưởng mạnh mẽ lên kinh tế thời Phục Hưng và về sau này của châu Âu. XÃ HỘI -Những cư dân La Mã tự do được chia thành 2 tầng lớp: quí tộc và người bình dân. Quí tộc là tầng lớp thống trị. Ban đầu, chỉ có họ mới có thể được bầu vào Lịch sử tư tưởng quản lý 1 (*) Lớp QH-2010-X-QL.A 4 các chức vị. Việc lấy nhau giữa các tầng lớp bị cấm và danh hiệu quí tộc chỉ có thể được thừa kế chứ không được nhận. Dưới nền Cộng hoà La Mã, một loạt những đấu tranh dẫn tới việc người bình dân được hưởng những quyền bình đẳng hoặc gần như bình đẳng. Cuối thời kì Cộng hoà, sự phân biệt giữa quí tộc và người bình dân bắt đầu mất đi ý nghĩa của nó. Một tầng lớp cai trị mới, gọi là quý nhân, là những gia đình, quý tộc hay người bình dân, đã sản ra một quan chấp chính tối cao. Trong thời kì Đế quốc, sự phân chia giai cấp bị bỏ và bị hầu hết mọi người quên lãng. Đầu thời kì Cộng hoà, những công dân còn bị chia thành các tầng lớp dựa vào vũ khí mà họ có thể mua được cho nghĩa vụ quân sự. Tầng lớp giàu nhất là những người cưỡi ngựa hoặc kị sĩ, những người có thể mua được một con ngựa chiến. Có cả người cưỡi ngựa là quí tộc và người bình dân. Sau này nước Cộng hoà đã cố định lượng tài sản được thay bằng quân trang như cơ sở của sự phân chia giai cấp. Những tầng lớp trên có nhiều quyền lực và uy tín chính trị hơn những tầng lớp dưới. Hệ thống này cũng mất đi ý nghĩa của nó sau sự bãi bỏ của nền Cộng hoà. - XH có 3 giai cấp : chủ nô, nông dân-thị dân, nô lệ Lịch sử tư tưởng quản lý 1 (*) Lớp QH-2010-X-QL.A 5 GIÁO DỤC Mục tiêu của nền giáo dục ở Roma là làm cho các học sinh trở thành những nhà hùng biện có ảnh hưởng lớn. Trường học khai giảng vào ngày 24 tháng 3 hằng năm. Mỗi ngày học bắt đầu vào sáng sớm và kéo dài đến hết buổi chiều. Thông thường, những đứa trẻ được dạy đọc và viết bởi cha của chúng. Về sau, khoảng 200 năm TCN, những đứa bé trai và gái được gửi đến trường khi chúng được khoảng 6 tuổi. Nền giáo dục cơ bản của Roma bao gồm đọc, viết, và đếm, và những vật dụng bao gồm những cuộn giấy da và sách. Ở tuổi 13, học sinh học về văn học Hi Lạp và La Mã và cả phần ngữ pháp. Ở tuổi 16, một số học sinh vào học ở trường hùng biện. Những người nghèo hơn thương được dạy ở nhà bởi người cha bởi vì trường học không phải là miễn phí. Ví dụ : Marcus Tullius Cicero 3 tháng 1, 106 TCN – 7 tháng 12, 43 TCN) là một triết gia và nhà hùng biện, chính khách, nhà lý luận chính trị La Mã. Ông xuất Lịch sử tư tưởng quản lý 1 (*) Lớp QH-2010-X-QL.A 6 thân từ một gia đình khá giả. Với thành tựu của mình, ông được xem là một trong những nhà hùng biện vĩ đại nhất La Mã. Ông cũng giới thiệu đến người La Mã các trường phái chính của triết học Hy Lạp và tạo ra một số từ vựng triết học Latinh (như humanitas, qualitas, quantitas, và essentia) nên ông cũng được xem là một nhà ngôn ngữ học, nhà dịch thuật và triết gia. HỘI HỌA, ÂM NHẠC, VĂN HỌC Có rất nhiều thể loại hội họa của thời kỳ đầu La Mã chịu ảnh hưởng theo lối thời Etruscan, đặc biệt ở các truyền thống hội họa công cộng. Vào thế kỷ thứ 3 TCN, hội họa Hy Lạp ảnh hưởng lên La Mã do chiến tranh và chiến lợi phẩm mang lại. Rất nhiều gia đình ở La Mã đã treo các bước tranh phong cảnh của các họa sỹ Hy Lạp. Nghệ thuật điêu khắc của La Mã thể hiện những người trai trẻ với vẻ đẹp cân đối cổ điển, về sau mở ra trường phái pha trộn chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa duy tâm. Văn học Latin chịu sự ảnh hưởng nặng nề của các tác giả Hy Lạp cổ đại. Một số tác phẩm thời kỳ Đế quốc La Mã thể hiện bằng các thiên anh hùng ca về chiến thắng vĩ đại của Đế chế. Dưới thời nền Cộng hòa mở rộng, bắt đầu xuất hiện các thể loại như, thi ca, kịch nói, sử học và bi kịch. KIẾN TRÚC XÂY DỰNG La Mã có niềm tự hào về các công trình kiến trúc của họ, khi mà có sự kết hợp các kiến thức truyền thống của nền văn minh Hy Lạp kinh điển. Từ hai kiểu Lịch sử tư tưởng quản lý 1 (*) Lớp QH-2010-X-QL.A 7 cột mới là kiến trúc hỗn hợp và kiểu Toscana, một nữa là kiểu mái vòm với phong cách từ Etruscan, Roma đã có khá nhiều cách tân vào cuối thời Cộng hòa La Mã. Điểm đặc biệt ở thời gian thế kỷ 1 TCN, La Mã đã bắt đầu biết dùng bê tông, thay thế cho đá cẩm thạch như nguồn vật liệu xây dựng chính và cho phép xây dựng nhiều công trình kiến trúc phức tạp hơn. Đồng thời ở thế kỷ 1 TCN, Vitruvius lần đầu tiên cho ghi chép các kiến thức kiến trúc xây dựng vào sử học. Về sau thế kỷ thứ 1 CN, La Mã cũng bắt đầu cho sản xuất thủy tinh ngay sau khi Syria phát hiện ra chúng. Đồ chạm khảm cũng theo đoàn quân viễn chinh ở Hy Lạp quay về La Mã. Rất nhiều vật dụng của La Mã được sản xuất từ bê tông. Một trong những giá trị kiến trúc của người La Mã cổ đại thể hiện qua các cầu vòm bằng đá. Nhờ những chiếc cầu này mà hệ thống giao thông nối liền các vùng của đế chế La Mã trở nên thuận lợi. Công trình kiến trúc La Mã nổi tiếng hay được nhắc đến là đền Parthenon, đấu trường Côlidê và Khải hoàn môn. Kiến trúc sư La Mã nổi tiếng thời đó là Vitruvius. Điêu khắc La Mã có cùng phong cách với điêu khắc Hy Lạp. Những bức tượng còn lại ở thành Roma và những phù điêu trên Khải hoàn môn là hiện vật tiêu biểu cho điêu khắc La Mã. TRIẾT HỌC Các nhà triết học La Mã cũng đã kế thừa truyền thống của triết học Hy Lạp, kế thừa những tư tưởng duy vật của Đêmôcrit. Những nhà triết học tiêu biểu thời kì đó như: Lucretius, Ciceron. Ngoài ra,sau này còn có những đại diện xuất sắc của trường phái"Khắc kỷ" như Seneca và Marcus AUrelius Lịch sử tư tưởng quản lý 1 (*) Lớp QH-2010-X-QL.A 8 LUẬT PHÁP Bộ luật thành văn cổ nhất ở La Mã là bộ Luật 12 bảng. Nó được gọi như vậy vì được khắc vào 12 bảng đá vào năm 452 TCN. Luật La Mã là hệ thống luật cổ, được xây dựng năm (449 TCN), áp dụng cho thành Roma và sau đó là cả Đế quốc La Mã. Các nguồn của Luật La Mã thời Cổ đại được sưu tập trong Corpus Iuris Civilis được tái khám phá trong thời kỳ Trung cổ và mãi cho đến thế kỷ 19 vẫn được xem là nguồn luật pháp quan trọng trong phần lớn các quốc gia châu Âu. Vì thế mà người ta cũng có thể gọi các luật lệ có hiệu lực trên lục địa châu Âu trong thời kỳ Trung cổ và trong thời gian đầu của thời kỳ Hiện đại là Luật La Mã. Trong thời gian cuối của thời Cổ đại Hoàng đế Justinian I đã ra lệnh sưu tập lại các bản văn luật cũ. Tác phẩm luật mà sau này được biết đến dưới tên Corpus Iuris Civilis bao gồm các quyển sách dạy về luật (công bố năm 533), tập san các bài văn của các luật gia La Mã (tiếng La Tinh: digesta hay pandectae), các đạo luật do hoàng đế ban hành (Codex Iustinianus, công bố năm 534) và các đạo luật đã được sửa đổi bổ sung (novellae). TÔN GIÁO Thần thoại cổ xưa của La Mã có đặc điểm rằng các thần không ngự trị ở đỉnh cao mà có yếu tố kết hợp giữa thần thánh và con người. Không giống như thần thoại Hy Lạp, người La Mã không thần thánh hóa các thần, mà có thể hình dung như những siêu tục. Người La Mã luôn tin tưởng trong mỗi con người, địa thế, đồ vật đều có một thần bản mệnh của chính nó, kiểu như là linh hồn. Đến thời Cộng hòa La Mã, tôn giáo là sự tuân phục của hệ thống các thầy tu, thầy tế bề trên, mà họ là những người nắm giữ các vị trí ở Nghị viện La Mã. Các trường dòng ở Roma có một vị trí quan trọng, ở đó các Đại Giáo chủ nắm giữ quyền lực lớn nhất. Các giáo chủ nắm giữ việc thờ cúng các vị thần khác nhau, nhằm tạo niềm tin được Lịch sử tư tưởng quản lý 1 (*) Lớp QH-2010-X-QL.A 9 che chở. Dưới thời Đế quốc La Mã, hoàng đế là người nắm giữ mệnh lệnh của các thần, và có quyền thờ cúng để tăng thêm sức mạnh, quyền uy. Kết hợp với tín ngưỡng của Hy Lạp cổ đại, các thần La Mã cũ được tăng thêm sức mạnh từ các thần Hy Lạp. Theo cách này, thần Jupiter là cách hiểu của sự chuyển tải từ vị thần Zeus, thần Mars (vị thần của chiến tranh) là thần Ares và Neptune (thần của biển) là thần Poseidon. ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ CỦA CỘNG HÒA LA MÃ Cộng hòa La Mã được thành lập vào năm 509 TCN, theo những tác giả về sau như Livy, khi nhà vua bị hạ bệ, và một hệ thống dựa trên những quan chức hành chính địa phương được bầu ra hằng năm. Quan trọng nhất là hai quan chấp chính tối cao, những người cùng nhau áp dụng quyền hành pháp, nhưng phải đấu tranh với Hội đồng Nguyên lão cứ lớn lên về qui mô và quyền lực cùng với lực lượng của nền Cộng hoà. Các chức vị quan toà lúc đầu chỉ được giới hạn cho quí tộc nhưng sau này được mở rộng cho cả người bình dân. Người La Mã dần dần đánh bại những dân tộc khác trên bán đảo Ý, chủ yếu liên quan đến những bộ tộc Ý khác (thuộc dòng Ấn-Âu) như người Samnite và Sabine, nhưng cũng có cả người Etrusca. Mối đe doạ cuối cùng cho đế chế La Mã đến khi Tarentum, một thuộc địa lớn của Hy Lạp, nhận được sự giúp đỡ của vua xứ Ipiros là Pyrros vào năm 282 TCN. Lãnh thổ của La mã mở rộng trong thời kỳ này, lúc đầu chỉ từ trung tâm bán đảo Italia sau mở rộng đến hết vùng địa trung hải. Trong hai thế kỷ đầu tiên lãnh thổ La mã mở rộng hết bán đảo Italia, thế kỷ tiếp theo mở rộng thêm Bắc Phi, bán đảo Iberia, Hi Lạp, và vùng miền nam nước Pháp hiện nay. Trong hai thế kỷ cuối của nền cộng hoà La mã tiếp túc mở rộng nốt phần Lịch sử tư tưởng quản lý 1 (*) Lớp QH-2010-X-QL.A 10 còn lại của nước Pháp hiện nay. Do diện tích quá rộng lớn nên bộ máy cộng hoà đã sụp đổ dưới chính sức nặng của đế chế. Trong nửa sau của thế kỉ thứ 3 TCN, Roma xung đột với Carthage trong 2 cuộc Chiến tranh Punic, xâm chiếm Sicilia và Iberia. Sau khi đánh bại Vương quốc Macedonia và Đế chế Seleucid vào thế kỉ thứ 2 TCN, người La Mã trở thành những người chủ không thể chối cãi của vùng Địa Trung Hải. Xung đột nội bộ giờ đây trở thành mối đe doạ lớn nhất đối với nền Cộng hoà. Hội đồng Nguyên lão, khư khư giữ lấy quyền lực cho mình, liên tục phản đối những cải cách đất đai quan trọng. Một hậu quả không lường trước được từ cải cách quân sự của Gaius Marius là quân lính thường có lòng trung thành với người chỉ huy của họ nhiều hơn đối với thành phố, và một vị tướng hùng mạnh như Marius, hay đối thủ của ông Lucius Cornelius Sulla, có đủ khả năng uy hiếp buộc thành phố và Hội đồng Nguyên lão phải nhượng bộ. Vào giữa thế kỉ 1 TCN ba người, Julius Caesar, Gnaeus Pompeius Magnus (Pompey) và Marcus Licinius Crassus, đã nắm quyền kiểm soát không chính thức của chính phủ cộng hoà thông qua một hiệp ước bí mật được biết đến như là Chế độ Tam hùng đầu tiên. Caesar có thể hoà hợp với những đối thủ Pompey và Crassus, cả hai đều là những người cực giàu với quân đội riêng và sự nghiệp thượng nghị sĩ, và hành động vì lợi ích của cả hai người khi bầu chọn quan chấp chính tối cao, trước khi dùng cương vị thống đốc của mình như người cầm quyền của Gaule để tự mình có được danh tiếng quân sự. Sau cái chết của Crassus và sự sụp đổ của chế độ Tam hùng, một sự tách biệt giữa Caesar và Hội đồng Nguyên lão đã dẫn tới nội chiến, với Pompey dẫn đầu lực lượng của Hội đồng. Caesar chiến thắng và được phong làm nhà độc tài suốt đời Lịch sử tư tưởng quản lý 1 (*) Lớp QH-2010-X-QL.A 11 sau khi từ chối tước hiệu quốc vương. Tuy nhiên, ông ta chiếm lấy quá nhiều quyền lực quá nhanh đối với một vài thượng nghị sĩ, và bị ám sát trong một âm mưu được tổ chức bởi Brutus và Cassius vào ngày 15 tháng 3 năm 44 TCN. Một chế độ Tam hùng thứ hai, bao gồm người thừa kế đã được chỉ định của Augustus và những cựu trợ thần Marcus Antonius và Marcus Aemilius Lepidus, lên nắm quyền, nhưng những thành viên của nó nhanh chóng rơi vào một cuộc đấu tranh giành quyền thống trị. Trong nỗ lực cuối giành chính quyền Cộng hoà, Augustus đánh bại Antonius tại trận chiến Actium vào năm 31 TCN và thôn tính những vùng lãnh thổ của Cleopatra, người vợ phương Đông của Antonius. Augustus giữ lại Ai Cập như là thuộc địa không chính thức của nhà vua, bảo đảm một thu nhập để lấy lòng những cư dân thủ đô. Giờ đây ông ta nắm lấy quyền lực gần như tuyệt đối với tư cách là thống soái quân sư, người bảo vệ duy nhất của quần chúng, và quyền lực tối cao trên lãnh thổ La Mã, và lấy tên Augustus. Những xác lập hiến pháp trên (đã biến Roma từ một nước cộng hoà thành một đế quốc). Người kế vị được chỉ định của Augustus, Tiberius, lên nắm quyền mà không có cuộc đổ máu nào (thậm chí còn không có nhiều sự kháng cự), và như vậy đã hoàn thành công trình của ông. Định rõ lúc kết thúc của Cộng hòa là việc dành cho nhà lịch sử ngày nay; dân La Mã vào lúc đó không nghĩ rằng Cộng hòa không còn. Các "Hoàng đế" vương triều Julia-Claudia giữ vững rằng res publica (thời quần chúng) vẫn tiếp tục, dù mà hoạt động dưới sự bảo vệ của các quyền lực đặc biệt, và sẽ cuối cùng trở lại hình thức Cộng hòa đầy đủ. La Mã vẫn còn là Cộng hòa trên danh nghĩa ít nhất cho đến thế kỷ 3 và cuộc cải cách lập chế độ Dominate (chủ nhân). TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA LA MÃ Lịch sử tư tưởng quản lý 1 (*) Lớp QH-2010-X-QL.A 12 Hình 1. Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hòa La Mã Lịch sử tư tưởng quản lý 1 (*) Lớp QH-2010-X-QL.A 13 Khoảng giữa thế kỷ VI TCN, sau cuộc cải cách của Xecviut Tuliut, nhà nước La Mã mới chính thức ra đời. Tuy vậy, cơ cấu bộ máy Nhà nước cộng hòa La Mã được hình thành dần dần suốt mấy thế kỷ, cho đến thế kỷ III TCN mới hoàn chỉnh. Năm 510 TCN, sau khi người Roma lật đổ Rex Tarquin kiêu ngạo, La Mã bước vào thời kỳ Cộng hòa. Cộng hoà La mã được điều hành bởi Viện nguyên lão, một cách khác hẳn so với chế độ quân chủ. Cơ cấu nhà nước La Mã được hình thành trong mấy thế kỷ, đến TK 3 TCN mới được hoàn chỉnh.Chính thể Cộng hòa quý tộc ở La Mã có những đặc điểm là ở TW các cơ quan chuyên chính gồm : Nghị viện (viện nguyên lão), Đại hội nhân dân và các cơ quan chấp chính.Nó thể hiện sâu sắc tính chất quý tộc của nhà nước La Mã. Đó là chính thể Cộng hòa quý tộc. -Nước Cộng hoà La Mã được điều hành bởi Hiến pháp bất thành văn, những điều luật này dựa trên nguyên tắc phân quyền và nguyên tắc kiểm soát và cân bằng. Sự phát triển của hiến pháp chịu ảnh hưởng lớn bởi cuộc đấu tranh giữa tầng lớp quý tộc và những tầng lớp còn lại. Lúc đầu chính quyền được điều hành bởi tầng lớp quý tộc (The patricians), những người đã sống lâu đời tại La Mã. Dần dần các luật đưa ra đặc quyền của tầng lớp quý tộc bị loại bỏ, từ đó nổi lên tầng lớp quý tộc mới dựa trên kết cấu xã hội thay vì điều luật để duy trì quyền lực. -Viện nguyên lão (Roman Senate) : Đây là cơ quan Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp của Nhà nước La Mã nên có quyền lực rất lớn như quyết định những vấn đề lớn của đất nước, ban hành chính sách đối nội, đối ngoại quyết định chiến tranh hay hòa bình, ban hành qui định về nghi thức quốc gia, phê chuẩn những quan lại cao nhất mới nhất được bầu ra quản lý tài sản cùa Nhà nước, giải thích Pháp luật, kiến nghị xây dựng Luật mới, thành lập phiên tòa xét xử những vụ án quan trọng. Lịch sử tư tưởng quản lý 1 (*) Lớp QH-2010-X-QL.A 14 Do Đại hội nhân dân bầu ra, Nghị viện (viện nguyên lão) gồm ban đầu là 50 đại biểu, cuối thời kỳ Cộng hòa lên đến 900 vị. Gồm các quý tộc, giàu sang đã từng nắm giữ chức quan cao cấp có độ tuổi từ 60 trở lên 300 người và chỉ những người giàu có mới được bầu vào nghị viện. Nghị viện là chính phủ, là cơ quan hành chính cấp cao nhất. Mặc dù không có quyền lập pháp nhưng nghị viện có quyền soạn thảo tất cả các dự thảo luật và nếu như nghị viện không đông ý thì đại hội nhân dân không thể thông qua được luật hoặc bầu ra những quan chấp chính. Điều kiện để trở thành một nghị sĩ viện nguyên lão là phải sở hữu một vùng đất tương đương với 100.000 denarii, thuộc dòng dõi patrician (Quý tộc có dòng dõi lâu đời tại La Mã), đã từng giữ chức vụ trong chính quyền. Viện nguyên lão sẽ bỏ phiếu để chấp nhận một người có đủ tiêu chuẩn trên có thành nghị sĩ hay không. S.P.Q.R (hoặc là SPQR) là một từ viết tắt từ một thành ngữ La Tinh Senātus Populusque Rōmānus (dịch ra tiếng Việt là Viện Nguyên lão và Nhân dân La Mã hay Thượng nghị viện và Nhân dân Rôma) chỉ đến chính quyền Cộng hòa La Mã, và được sử dụng như một dấu hiệu chính thức của cả chính quyền. Nó xuất hiện ở các đồng tiền La Mã, và cuối các văn bản khắc đá hoặc kim loại công công, trong lời đề tặng của các đài kỷ niệm và các công trình công cộng, và được trang trí trên biểu tưởng của các Lê dương La Mã. Câu thành ngữ này xuất hiện hàn trăm lần trong lịch sử chính trị, luật pháp, văn hóa La Mã, bao gồm các bài diễn văn của Lịch sử tư tưởng quản lý 1 (*) Lớp QH-2010-X-QL.A 15 Marcus Tullius Cicero và các bản chép lịch sử của Titus Livius. Từ khi ý nghĩa của các từ không bao giờ thay đổi, trừ về cách viết và ý nghĩa đúng của chữ populus trong văn học, trong các từ điển La Tinh phân loại nó như là một dạng thể thúc. Thời hiện đại, SPQR là khẩu hiệu của của Thành phố Roma và xuất hiện trên biểu tượng của thành phố, cũng như là trê nhiều công trình đô thị và nắp cống. Thời gian xuất hiện của thuật ngữ này là không rõ, nhưng ý nghĩa của nó đã chỉ ra rằng thời kỳ nó xuất hiện là từ khi xuất hiện Cộng hòa La Mã. Cả hai nghĩa hợp pháp mà câu thuật ngữ trên chỉ ra là Senatus và Populus Romanus (Viện Nguyên lão và Nhân dân La Mã). Trong đó Populus (nhân dân) có nghĩa tối cao và sự kết hợp [Senatus và Populus Romanus] cũng có ý nghĩa như vậy, nhưng Senatus (Viện Nguy