Hy Lạp cổ đại là thời kì lịch sử Hy Lạp bao trùm toàn bộ khu vực Địa Trung Hải và biển Đen và kéo dài gần một nghìn năm, đến khi Kitô giáo xuất hiện. Các nhà sử học coi nó là nền tảng văn hóa cho văn minh phương Tây. Văn hóa Hy Lạp có ảnh hưởng rất lớn trong Đế chế La Mã, và ảnh hưởng này cũng được truyền đi khắp các vùng trong châu Âu.
Văn minh của người Hy Lạp cổ đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngôn ngữ, chính trị, hệ thống giáo dục, triết học, khoa học, nghệ thuật, và kiến trúc của thế giới cận đại, thúc đẩy phong trào Phục Hưng tại Tây Âu cũng như làm sống lại các phong trào tân Cổ điển tại châu Âu và châu Mỹ thế kỷ 18 và 19.
"Hy Lạp cổ đại" là thuật ngữ để chỉ khu vực nói tiếng Hy Lạp vào thời cổ đại. Nó không chỉ đơn thuần chỉ bán đảo Hy Lạp ngày nay về mặt địa lý, mà còn chỉ các khu vực văn hóa Hy Lạp vào thời cổ đại của người Hy Lạp: Kypros và quần đảo Aigeus, dải bờ biển Aigeus của Anatolia (được biết đến vào thời đó là Ionia), Sicilia và miền nam Ý (biết đến như Magna Graecia), và một số vùng khác nơi người Hy Lạp cổ định cư như ven biển Illyria, Ai Cập, Cyrenaica, miền nam xứ Gaule, đông và đông bắc bán đảo Iberia, và Taurica.
25 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 5668 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những nét văn hóa nổi bật của người hy lạp và roma cổ đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG THPT THÀNH NHÂN
NHÓM 2-LỚP 10A1
-----&-----
BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: “NHỮNG NÉT VĂN HÓA NỔI BẬT CỦA NGƯỜI HY LẠP VÀ ROMA CỔ ĐẠI.”
Lời Nói Đầu
Hôm nay,được thầy giao đề tài “Những nét văn hóa nổi bật của người Hy Lạp và Roma cổ đại” chúng em vừa vui mừng vừa lo lắng. Vui là gì được tìm hiểu những cái hay,cái đẹp của người La Mã cổ đại,được tìm tòi,chiêm ngưỡng những nền văn hóa,kiến trúc,nghệ thuật của họ rồi chợt nhận ra rằng kiến thức của chúng em thật ít ỏi và nhỏ bé. Kiến thức không gói gọn trong những bài học trong sánh giáo khoa mà nó ở mọi nơi để chúng em khám phá. Lo sợ vì mọi thứ thật quá mới mẻ với chúng em,lần đầu được làm quen và học tập theo phương pháp như thế này chúng em rất thích thú. Nhưng dù có chuẩn bị kĩ lưỡng,cẩn thận đến nhường nào thì đây cũng là bài tiểu luận đầu tiên chúng em được thầy giao cho và sai sót là điều không thể tránh khỏi,chúng em mong rằng sau khi đọc xong bài tiểu luận này các lỗi dù lớn hay nhỏ thầy sẽ thông cảm và sửa sai cho chúng em để chúng em rút kinh nghiệm và có những bài tiểu luận tốt hơn về sau,cảm ơn thầy đã đọc.........
GIỚI THIỆU
Hy Lạp cổ đại là thời kì lịch sử Hy Lạp bao trùm toàn bộ khu vực Địa Trung Hải và biển Đen và kéo dài gần một nghìn năm, đến khi Kitô giáo xuất hiện. Các nhà sử học coi nó là nền tảng văn hóa cho văn minh phương Tây. Văn hóa Hy Lạp có ảnh hưởng rất lớn trong Đế chế La Mã, và ảnh hưởng này cũng được truyền đi khắp các vùng trong châu Âu.
Văn minh của người Hy Lạp cổ đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngôn ngữ, chính trị, hệ thống giáo dục, triết học, khoa học, nghệ thuật, và kiến trúc của thế giới cận đại, thúc đẩy phong trào Phục Hưng tại Tây Âu cũng như làm sống lại các phong trào tân Cổ điển tại châu Âu và châu Mỹ thế kỷ 18 và 19.
"Hy Lạp cổ đại" là thuật ngữ để chỉ khu vực nói tiếng Hy Lạp vào thời cổ đại. Nó không chỉ đơn thuần chỉ bán đảo Hy Lạp ngày nay về mặt địa lý, mà còn chỉ các khu vực văn hóa Hy Lạp vào thời cổ đại của người Hy Lạp: Kypros và quần đảo Aigeus, dải bờ biển Aigeus của Anatolia (được biết đến vào thời đó là Ionia), Sicilia và miền nam Ý (biết đến như Magna Graecia), và một số vùng khác nơi người Hy Lạp cổ định cư như ven biển Illyria, Ai Cập, Cyrenaica, miền nam xứ Gaule, đông và đông bắc bán đảo Iberia, và Taurica..
Còn La Mã cổ đại hay Rome cổ đại là một nền văn minh phồn thịnh, bắt đầu trên Bán đảo Ý từ thế kỉ 8 trước Công nguyên. Trải dài qua Địa Trung Hải, và với trung tâm là Roma, La Mã cổ đại là một trong những nền văn minh lớn nhất thế giới trong thời kỳ cổ đại.Trong suốt 12 thế kỉ tồn tại của nền văn minh, qua các cuộc chinh chiến và đồng hóa, La Mã cổ đại đã thống trị các khu vực Nam Âu, Tây Âu, Tiểu Á, Bắc Phi và một phần của Đông Âu. Đây là nền văn minh quyền lực nhất trên lãnh thổ Địa Trung Hải.
LỊCH/THIÊN VĂN
Về lịch, thuật ngữ "Lịch La Mã" dùng để chỉ tất cả các loại lịch do người La Mã sáng tạo và sử dụng cho tới trước thời kỳ Julius Caesar (năm 45 trước Công Nguyên), Lịch La Mã được Romulus (người sáng lập thành Roma, khoảng 753 TCN) tạo ra dựa trên hệ thống âm lịch do người Hy Lạp sử dụng,lịch này bao gồm 10 tháng, bắt đầu từ ngày chứa điểm xuân phân (vernal equinox - khoảng ngày 21 tháng 3 dương lịch hiện nay), tức thời điểm mà độ dài ngày và đêm bằng nhau bắt đầu mùa xuân (phân biệt với điểm thu phân, autumnal equinox, cũng có ngày và đêm dài bằng nhau nhưng bắt đầu cho mùa thu). Tổng cộng 10 tháng này bao gồm 304 (hay 305) ngày, số ngày còn lại được bổ sung vào các tháng cuối của năm. Tháng đầu tiên tên Martius, tôn vinh vị thần Chiến tranh Mars của người La Mã. Tháng này có 31 ngày.Aprilis, tôn vinh nữ thần Hy Lạp Aphrodite (tức thần Vệ nữ, hay Venus trong thần thoại La Mã), tượng trưng cho sự sinh sôi, tình yêu, niềm hoan lạc và sắc đẹp. Tháng này có 30 ngày.
Maius, có 2 giả thiết: 1. tôn vinh các vị nguyên lão La Mã (maiores); hoặc 2. tôn vinh nữ thần Maia trong thần thoại Hy Lạp, nữ thần lớn nhất, đẹp nhất, cũng là nữ thần Đất đai, lấy thần Zeus và sinh ra Hermes, rồi nuôi Arcas, con trai riêng của Zeus, để che mắt bà vợ Hera hay ghen tuông của ông ta.
Vào thời kỳ Cộng hoà La Mã (khoảng 450 TCN), hai tháng Februarius và Ianuarius được đảo ngược, có lẽ để "làm vui lòng" vị thần Janus, còn tháng chênh lệch mens intercalaris được chuyển xuống cuối năm và đổi tên thành Mercedonius, rút xuống còn 27 ngày nhưng đồng thời cũng rút ngắn khoảng cách xuống 2 năm thay vì 4 năm như trước. Chữ mercedonius có nguồn gốc từ merces, tức là "tiền công" mà công nhân được lãnh vào thời điểm này trong năm.
Do đó, theo lịch Cộng hoà La Mã, cứ 2 năm lại có 1 tháng Mercedonius 27 ngày, và tháng Februarius liền trước đó rút ngắn xuống còn 23 hoặc 24 ngày (xen kẽ). Và số ngày trong năm tiến gần tới số ngày của năm thiên văn hơn: 2 năm có tháng Mercedonius gồm 377 và 378 ngày, 2 năm còn lại có 355 ngày. Tính bình quân trong 4 năm, mỗi năm theo lịch Cộng hoà La Mã có 366,25 ngày. Trong thời kỳ này, một tuần lễ được tính có 8 ngày.Người Hy Lạp có hiểu biết chính xác hơn về trái đất và hệ mặt trời , người Rô Ma tính một năm là 365 ngày ¼ ,định ra một tháng lần lượt có 30 và 31 ngày, riêng tháng hai có 28 ngày rất gần với hiểu biết ngày nay. Lịch La Mã bị trật khớp khi các viên chức nhà nước bắt đầu bổ sung thêm những tháng mới nữa. Tại sao ư? Thỉnh thoảng họ làm thế để tại chức được lâu hơn hoặc hoãn bầu cử. Cuối cùng, vào năm 45 tCN, hoàng đế Julius Caesar đã phê chuẩn lấy dương lịch Ai Cập dùng cho Đế chế La Mã. Ông gọi nó là lịch Julian để tự tôn vinh mình. Nó có một năm 365 ngày và mỗi bốn năm – năm nhuận – bổ sung thêm một ngày. Lịch Julian rất chính xác. Nó chỉ dài hơn năm mặt trời 11 phút 14 giây.
Về thiên văn, Kế thừa những thành tựu của thiên văn học Lưỡng Hà, người Hy Lạp cổ đại đã có bước phát triển quan trọng trong lý thuyết và phương pháp tính toán để đưa thiên văn học tiến một bước dài. Những gì mà họ tạo ra sau này đã được người Ả Rập và châu Âu tiếp tục sử dụng.
Vào buổi sơ khai, người Ai Cập cổ đại quan niệm vũ trụ được mặt đất chia thành hai phần, phần trên là bầu trời sáng láng còn phía dưới là địa ngục tối tăm. Ban ngày Thần Mặt trời cưỡi cỗ xe rực lửa chạy khắp bầu trời và ban đêm bơi trên một cái chén vàng theo đại dương bao quanh mặt đất.
Vào thế kỷ 6 TCN, Thales (khoảng 624 TCN – khoảng 546 TCN) đã dự báo chính xác nhật thực xảy ra vào ngày 28 tháng 5 năm 585 TCN khi quan sát nhật thực lớn vào 18 tháng 5 năm 603 TCN, một tiến bộ quan trọng lúc đó.Ông chứng tỏ rằng các ngôi sao phát sáng nhờ ánh sáng của mình, trong khi Mặt Trăng được chiếu sáng nhờ ánh sáng Mặt Trời. Theo Thales, mặt đất là một chiếc ván phẳng bơi trên mặt nước.
Học trò của ông - Anaximander (khoảng 611 TCN – khoảng 546 TCN) đã đưa ra một mô hình vũ trụ theo thuyết địa tâm đầu tiên trong lịch sử thiên văn học. Theo đó Trái Đất là trung tâm và bao quanh bởi ba vòng cầu lửa, vòng gần Trái Đất nhất có nhiều lỗ thủng nhỏ chính là những ngôi sao, vòng xa hơn có một lỗ thủng lớn - Mặt Trăng và vòng xa nhất có một lỗ thủng lớn nhất - Mặt Trời. Đó là một bước phát triển quan trọng bởi trước ông, những nghiên cứu thiên văn học chỉ dựa trên quan sát chứ không phải suy luận. Không những thế ông còn tìm cách giải thích nguồn gốc của vũ trụ: cái không giới hạn (Apeiron) là khởi đầu của tồn tại; vũ trụ sinh ra, trưởng thành rồi chết đi và lại sinh ra theo vòng tuần hoàn. Sau khi La Mã xâm chiếm Hy Lạp, các nhà thiên văn học người Hy Lạp vẫn tiếp tục hành trình khám phá của mình. Ngoài việc dùng phương pháp đo góc để tính toán khoảng cách tương đối từ Trái Đất đến Mặt Trăng và Mặt Trời, Aristarchus (310 TCN - khoảng 230 TCN) còn là người đầu tiên trình bày một cách rõ ràng và có hệ thống về thuyết nhật tâm. Theo đó, Mặt Trăng quay quanh Trái Đất, Trái Đất quay quanh trục của nó và các hành tinh quay quanh Mặt Trời.
-Các con thú trên hoàng đạo theo thiên văn học Hy Lạp cổ đại, viện bảo tàng Louv
CHỮ VIẾT:
Bảng chữ cái Hy Lạp là hệ thống 24 ký tự được dùng để viết tiếng Hy Lạp từ cuối thế kỷ thứ 9 trước Công nguyên hoặc đầu thế kỷthứ 8 trước Công nguyên. Theo nghĩa hẹp đây là bảng chữ cái đầu tiên và lâu đời ghi mỗi nguyên âm và phụ âm bằng một biểu tượng riêng.Nó cũng được sử dụng như vậy cho đến ngày nay. Những chữ cái này cũng được dùng trong bảng số Hy Lạp từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên.Bảng chữ cái Hy Lạp được kế thừa từ Bảng chữ cái Phoenician, và nó không hề liên quan đến hệ thống chữ viết trước của Hy Lạp là Linear B hay Cypriot. Nó cũng là nền tảng cho nhiều bảng chữ cái khác ở châu Âu và Trung Đông, bao gồm cả bảng chữ cái Latinh. Ngoài việc được sử dụng để viết tiếng Hy Lạp hiện đại, ngày nay các chữ cái này cũng được dùng như những biểu tượng Toán và khoa học, Vật lý hạt trong Vật lý, hay tên các ngôi sao, tên của các cơn bão nhiệt đới siêu cấp và trong những mục đích khác.
Còn về Roma cổ đại do ngôn ngữ chính thức của họ là tiếng Latin, thuộc nhóm gốc Ý của hệ Ấn-Âu. Với bảng mẫu tự chữ cái trên cơ sở của bảng chữ cái Hy Lạp. Tuy vậy, bảng chữ cái Latin lại có đời sống rộng rãi và trường tồn cùng với các bước phát triển văn học. Ngôn ngữ Latin được xem như là thứ ngôn ngữ của sự tao nhã, lãng mạn và được phát triển lên một tầm cao mới vào thế kỷ 1 TCN. Thực tế, ngôn ngữ của Đế quốc La Mã là thứ tiếng Latin dân dã (vulgar Latin), khác nhiều với ngôn ngữ Latin kinh điển ở ngữ pháp và từ vựng và cách phát âm.
-Bản khắc có từ thế kỷ 6 TCN được xem như nguồn gốc chữ viết của La Mã.
VĂN HỌC:
Văn học cổ điển được viết dưới thời Hy Lạp cổ xưa từ thế kỷ thứ 4 và phát triển lên trong thời Đế chế Byzantine. Vào thời kỳ đầu, Hy Lạp có 2 tác phẩm đồ sộ của Homer, Iliad và Odyssey. Một nhà thơ vĩ đại của thời kỳ này là Hesiodos (Ησίοδος). Ông có hai tác phẩm trường tồn là Works and Days và Theogonia.
Chiếm vị trí quan trọng trong văn học Hy Lạp cổ đại phải kể đến “thần thoại Hy Lạp”. Thần thoại Hy Lạp khá phong phú và thể hiện trong đó cách giải thích của người Hy Lạp về tự nhiên, nguồn gốc loài người đồng thời nêu lên những kinh nghiệm của cuộc sống lao động và ước vọng của mình. Các nhân vật trong thần thoại từ vũ trụ, thần thánh tới các bậc anh hùng dũng sĩ. Từ khối hỗn mang (gọi là Chaos), xuất hiện nữ thần đất Gaia rồi thần ái tình Eros nhờ đó Chaos và Gaia lấy nhau sinh ra đêm tối, ánh sáng, sao trời, biển cả, núi non, sông ngòi, sấm chớp... Bàn tay khéo léo của Prometheus đã nặn ra loài người từ đất sét và lấy trộm lửa mang đến cho loài người. Dưới sự điều khiển của thần Zeus, vị thần tối cao của các thần ngự trị trên đỉnh Olympus quanh năm tuyết phủ đã can thiệp vào mọi lĩnh vực đời sống con người. Thần thánh vừa thể hiện sức mạnh của trần gian vừa thể hiện sự lao động sáng tạo của con người như: thần trồng nho Dionysus, nữ thần nông nghiệp Demeter, thần thợ rèn Hephaistos, nữ thần anh hùng Calios, nữ thần múa Ternexiso...
Nhiều bài thơ trữ tình cũng được sáng tác ở thời kỳ này là của Sappho và Pindarus. Những người Hy Lạp còn nổi tiếng với các tác phẩm kịch sân khấu và các trường ca bất hủ. Có khoảng 100 vở bi kịch được trình diễn trong suốt thời gian dài, về sau chỉ còn ba kịch gia được xem là tồn tại lâu hơn cả: Aeschylus, Sophocles và Euripides. Trên cơ sở truyện dân gian, ra đời truyền thuyết về thành Troia.
Giống như các vở bi kịch, thể loại kịch nói cũng được thể hiện trong các dịp trang trọng tại nhà hát Dionysus tại Athena, nhưng ở đây vở diễn bao hàm đầy đủ các yếu tố như tục tĩu, chửi bới và lăng nhục. Một tác phẩm kịch trường tồn của Aristophanes là một kho tàng của thể loại hài hước. Menanderus là nhà văn đã đề xuất thể loại kịch Hy Lạp theo trào lưu mới.
Tác phẩm văn xuôi vĩ đại của thế kỷ thứ 4 là viết về triết học. Thời kỳ này xuất hiện rất nhiều triết gia Hy Lạp, nhưng có ba triết gia nổi tiếng: Socrates, Platon và Aristotle. Trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, Platon là người hầu như không có đối thủ.
NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC:
Kiến trúc Hy Lạp cổ đại ra đời và hình thành trên một vùng đất đai rộng lớn, bao gồm miền Nam bán đảo Balkans, các đảo nhỏ ở vùng biển Aegaeum, khu vực Tiểu Á, vùng ven biển Hắc Hải, Ý, Sicilia, Pháp, Tây Ban Nha và Ai Cập.
Các quần thể kiến trúc bao gồm kiến trúc thánh địa và kiến trúc dân dụng Hy Lạp cổ đại.
Ở những công trình kiến trúc có tính chất "công cộng" như vậy, người ta thường tổ chức các lễ hội, tiến hành thi đấu thể thao, bình luận văn chương, diễn thuyết, ngâm thơ và biểu diễn kịch, ngoài ra còn có thể trao đổi, mua bán. Do đó, về sau người ta đã xây thêm xung quanh các quần thể này những sân bãi thi đấu, quán trọ, hội trường, các hành lang cột và các loại đền đài.
Hai quần thể kiến trúc công cộng phổ biến trong đô thị cổ đại lúc bấy giờ là Agora (quảng trường công cộng, mang tính dân dụng) và Acropol (là những quần thể kiến trúc với nhiều đền đài, được xây dựng trên những khu đồi cao).
Diện tích các Agora chiếm khoảng 5% diện tích đất thành phố. Những Agora "đời đầu" có hình dạng bất quy tắc nhưng từ cuối thế kỷ 4 TCN trở đi, nó có dạng hình học nhất định và được bao vây bởi các hàng cột thức hai tầng. Ở giữa Agora có đặt bàn thờ và tượng thần. Các Agora quan trọng có thể kể ra là Agora ở Miletus, Megalopolis, ở Asoss và Knid.
Agora ở Miletus.
Các Acropol được xây dựng thêm các nhà hát ngoài trời có thềm dốc bậc ở các khu vực chân núi. Các Acropol nổi tiếng nhất là Acropol ở Athena ( hay còn gọi là Acropolis), ở Bergama và ở Paestum.
Quần thể Acropol.
Các loại đền đài Hy Lạp cổ đại
Đền thờ Hy Lạp cổ đại có đặc điểm là nhiều cột chạy vòng phía bên ngoài, hay nói vui là "bị ám ảnh bởi các loại cột". Các loại hình đền đài này có những dạng nhất định, tùy vào mức độ "dày đặc" của cột.
Những gì còn sót lại của đền thờ Themis.
Loại đền cổ nhất có dạng hình chữ nhật, lối vào chính ở cạnh ngắn và có hai cột ở chính cạnh ngắn này, gọi là dạng cột đôi ở hiên (distyle); ví dụ như ngôi đền thờ thần Themis ở Rhamnus.
Loại đền cổ thứ hai có dạng tương tự như trên, một dạng biến thể của distyle có thêm hai cột ở cạnh ngắn phía sau nữa, gọi là dạng cột đôi ở hiên cả 2 phía. Ví dụ điển hình là đền thờ thần Artemis ở Ephesus.
Đền thờ Artemis.
Loại đền thứ 3 giống loại đền thứ nhất, nhưng thay vì hai cột mà là bốn cột ở phía trước, gọi là dạng hàng cột mặt trước (Prostyle). Ví dụ như ngôi đền ở Selinus.
Đền Silinus.
Loại đền tiếp theo giống loại đền thứ hai, nhưng có bốn cột ở cạnh ngắn phía trước và bốn cột ở cạnh ngắn phía sau, gọi là loại hàng cột cả hai đầu (Amphi-Prostyle) (tiền tố "amphi" có nghĩa là "cả hai phía").
Loại đền hình tròn, vành ngoài có hàng cột vòng quanh gọi là Tholos. Ví dụ đền Tholos ở Epidaurus.
Tái hiện lại đền Tholos.
Loại đền hình chữ nhật có tường chịu lực là chính, nhưng mặt ngoài tường ghép thêm các cột, gọi là loại đền Pseudo-Peripteral. Ví dụ như đền thờ thần Zeus ở Olympia.
Đền thần Zeus.
Loại đền hình chữ nhật có một hàng cột chạy ở vành ngoài chu vi công trình, gọi là loại đền có các hàng cột bao quanh (Peripteral). Ví dụ đền Hephaestos và đền Parthenon ở Athena.
Đền Parthenon.
Loại đền hình chữ nhật, có hai hàng cột chạy bao xung quanh công trình, có tên gọi là đền Dipteral.Ví dụ đền Olympeion ở Athena, đền thờ Apollo ở Miletos.
Mặt bằng đền thờ Hy Lạp cổ đại được tạo thành bởi ba thành phần chính: pronaos (tiền sảnh), naos(gian thờ) và pathenon (phòng để châu báu). Ngoài ra, trong một số đền còn có thêmopisthodomos(sảnh ở phía sau).
Vẻ đẹp của đền đài Hy Lạp cổ đại gắn liền với sự ra đời và phát triển của các loại thức cột.
Sự hình thành và phát triển của các loại cột
Cột ở các công trinhg kiến trúc Hy Lạp cổ đại là hệ thống của sự tỷ lệ và cách thức trang trí cột. Đây là cách người Hy Lạp cổ đại tìm kiếm đến cái đẹp lý tưởng.
Có 3 loại thức cột cơ bản trong kiến trúc Hy Lạp: cột Doric, cột Ionic và cột Corinth. Những kiểu cột Hy Lạp đã mang đến cho kiến trúc một sức sống, chịu đựng được thử thách của thời gian, biểu trưng cho vẻ đẹp và sự tinh tế của kiến trúc cổ điển. Thiết kế cột trong các công trình Hy Lạp cổ đại được xem như một biểu tượng của kiến trúc cổ điển.
Cột Doric:
Cột Doric là loại cột cổ nhất và đơn giản nhất trong hệ thống các kiểu cột cổ điển. Doric hình thành từ một trụ thẳng đứng phình to ở đáy. Kiểu cột này không có phần đế cột và cũng không có phần đầu cột.
Vẻ đẹp thức cột này thường được so sánh với vẻ đẹp khỏe mạnh của người đàn ông cường tráng. Kiểu cột này được sử dụng ở tầng dưới cùng của đấu trường Colosseum của người La Mã vì có khả năng chịu lực cao nhất.
Cột Ionic
Trái với kiểu cột Doric, cột Ionic mang dáng dấp nữ tính, mảnh dẻ và giàu tính trang trí hơn cột Doric. Cột Ionic có 24 gờ sống đứng trong khi cột Doric chỉ có 20 gờ, tỷ lệ đường kính cột trên chiều cao cột là 1:9.
Ngoài ra, cột này có thêm đế cột ở phía dưới và đầu cột có hình đệm nhỏ, phía trên có hình xoắn ốc loe ra rồi cuộn vào trong. Các dầm ngang của cột Ionic được phân vị theo chiều ngang thành ba dải. Các ngôi đền có cột này là đền Artemis ở Ephesus, đền thờ Apollo ở Bassae, đền Erecteyon ở Athena.
Cột Corinth
Cột Corinth ra đời sau hai cột trên, vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, cũng là loại cột giàu tính trang trí, đầu cột có nhiều chi tiết hoa lệ, giống như một lẵng hoa với nhiều đường uốn lượn. Cột này do kiến trúc sư Callimachus sáng tạo ra. Cột này có ưu điểm hơn hai cột trên là đối xứng nhiều chiều và có thể cảm nhận được trong không gian. Có thể thấy công trình sử dụng loại cột này tại đền Olympeion ở Athena và đền Apollo ở Bassae.
Kiến trúc La Mã được tôn vinh là bậc thầy của thế giới. Nền kiến trúc này không chỉ truyền bá nghệ thuật Hy Lạp, mà còn mang đến những bài học phong phú đôi khi trái ngược với nghệ thuật Hy Lạp. Một trong những giá trị của kiến trúc đền Hy Lạp là sự đơn giản nhưng vững chắc, xây bằng đá cẩm thạch, có thể tránh được phần nào mối lo hoả hoạn. Cấu trúc lắp ghép các bộ phận của công trình không quá cầu kỳ tính toán, nhưng đảm bảo sự an toàn và có khả năng thu hút mắt nhìn. Các đền Hy Lạp là vị trí thiêng liêng, không phải là nơi hội tụ quần chúng. Những nghi lễ chỉ diễn ra ở bên ngoài. Người ta nhận thấy rằng kiến trúc La Mã cũng quay lại những cách thức xây dựng phù hợp với nhu cầu của các thành phố lớn. Sự đổi mới được ghi nhận trong kiến trúc La Mã là việc sử dụng những nguyên vật liệu khác nhau có thành phần kết dính gần như không thể phá huỷ, tăng sự vững chắc cho công trình. Các kiến trúc kiểu hình vòm cung hay vòm bát úp phát huy hết tác dụng. Loại nguyên vật liệu trên cho phép thực hiện hiệu quả những công trình kiến trúc đồ sộ. Tuy nhiên, vữa lại có màu ghi xám mang cảm giác u ám.
- đấu trường La Mã -
Rome, một thành phố luôn say mê với những nét tráng lệ, làm sao có thể chấp nhận được sự kém hoa mỹ này. Vì thế, người ta bao phủ ra ngoài bức tường đó các mảng đá hoa hoặc các bức tranh tường. Cũng tại La Mã, việc sử dụng các nguyên vật liệu cứng và bền, đều có khả năng chịu được lửa cũng như sự thất thường của thời tiết, khiến cho các công trình xây dựng có khả năng tồn tại với thời gian. Kiến trúc La Mã cho thấy sự phát triển kiểu kiến trúc vòm cuốn có nửa hình tròn ở phía trên các ô cửa, điểm này gần như xa lạ với kiến trúc Hy Lạp. Ngoài ra, người ta còn giảm bớt tính nặng nề của lanh tô các cánh cửa. Đền Ai Cập, kiên quyết làm hẹp các cánh cửa bằng cách sử dụng các khối đá trụ khổng lồ, nặng nhiều tấn. ở cửa thành Mycène (Hy Lạp) có những con sư tử đứng trên các tảng đá khổng lồ. Ngược lại, hình dáng kiến trúc vòm cuốn mang tới sự tự do thoáng đãng, tách các cột trụ, tạo không gian và nhịp điệu, phù hợp với các cạnh và vòm tam gíac ở phía trong của công trình kiến trúc, đồng thời an toàn hơn nếu có hoả hoạn. Cũng phong cách đó, người ta cho xây dựng những giáo đường rộng mênh mông. Hiện nay còn lại dấu tích hùng vĩ của giáo đường Colisée ở Rome (thủ đô ý) được Vespasien khởi công xây dựng năm 72 sau Công nguyên, và Domitien hoàn thành nốt. Giáo đường Colisée (trước gọi là Nhà hát Flavien) có đường kính khoảng 188 mét, nơi đây có thể chứa được hơn năm trăm nghìn khán giả. Nhà tắm khổng lồ Dioclétien và một số nhà thờ, bảo tàng, học viện cũng có những nét kiến trúc tương tự.
Những sáng tạo của nghệ thuật La Mã đã có uy tín đến tận b