Tiểu luận Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái và tác động của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế

Hiện nay, các hoạt động thương mại quốc tế ngày càng phát triển ở hầu khắp các quốc gia. Một trong các công cụ đắc lực của các hoạt động đó chính là tỷ giá hối đoái. Thậm chí những mối quan tâm về tỷ giá đã đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong việc hoạch định các chính sách. Nếu Ngân hàng trung ương không muốn để đông tiền nước mình sụt giá nó có thể theo đuổi một chính sách tiền tệ thắt chặt, giảm bớt cung nội tệ để năng lãi suất trong nước, làm cho đồng tiền của nước mình tăng giá và ngược lại. Đối với Việt Nam, sau 20 năm đổi mới, các hoạt động thương mại quốc tế có sự tham gia của nước ta ngày càng nhiều, hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng dần rõ nét. Cùng với nó, thị trường chứng khoán của Việt Nam cũng đã hình thành và đang trên đà phát triển. Tất cả các hoạt động đó đều liên quan trực tiếp đến tỷ giá hối đoái.

doc21 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 8921 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái và tác động của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Hiện nay, các hoạt động thương mại quốc tế ngày càng phát triển ở hầu khắp các quốc gia. Một trong các công cụ đắc lực của các hoạt động đó chính là tỷ giá hối đoái. Thậm chí những mối quan tâm về tỷ giá đã đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong việc hoạch định các chính sách. Nếu Ngân hàng trung ương không muốn để đông tiền nước mình sụt giá nó có thể theo đuổi một chính sách tiền tệ thắt chặt, giảm bớt cung nội tệ để năng lãi suất trong nước, làm cho đồng tiền của nước mình tăng giá và ngược lại. Đối với Việt Nam, sau 20 năm đổi mới, các hoạt động thương mại quốc tế có sự tham gia của nước ta ngày càng nhiều, hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng dần rõ nét. Cùng với nó, thị trường chứng khoán của Việt Nam cũng đã hình thành và đang trên đà phát triển. Tất cả các hoạt động đó đều liên quan trực tiếp đến tỷ giá hối đoái. Tầm quan trọng ngày càng tăng cao của tỷ giá chính là lý do em chọn đề tài: " Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái và tác động của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế." NỘI DUNG I, Lý luận chung về tỷ giá hối đoái 1, Khái niệm tỷ giá hối đoái. Để hiểu về tỷ giá hối đoái, trước hết chúng ta nên đi từ khái niệm ngoại tệ và ngoại hối. Ngoại tệ là đồng tiền của nước ngoài do một nước khác phát hành nhưng phải là một phương tiện chi trả có hiệu lực trong thanh toán. Ngoại hối bao gồm ba yếu tố cơ bản: Ngoại tệ, vàng, chứng từ có giá trị ngoại tệ như các cổ phiếu lưu hành bằng ngoại tệ, hối phiếu, chứng khoán có giá trị... Trong đó, đối với hối phiếu, thời hạn hiệu lực của hối phiếu tuỳ thuộc vào kỳ hạn của hối phiếu đó; còn đối với các chứng từ có giá khác như trái khoán, trái phiếu khi hết hạn phải quay lại nơi phát hành để lấy cả gốc và lãi. Khi ngoại hối là vàng thì đó là phao cứu hộ cho sự ổn định tiền tệ quốc gia bởi lẽ nó là phương tiện chị trả cuối cùng trong thanh toán quốc tế. Vàng có khả năng chuyển sang bất kỳ ngoại tệ mạnh nào mà chủ sở hữu mong muốn. Qua đó có thể thấy, thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các hoạt động mua bán ngoại hối kể trên. Có rất nhiều quan điểm về khái niệm tỷ giá, thông thường theo từng trường phái lại có các khái niệm khác nhau. Theo quan điểm cổ điển, tỷ giá là so sánh ngang giá vàng trong nội dung đồng tiền của mỗi nước, quan điểm này chỉ đúng ở chế độ tỷ giá cố định. Sau đó, đánh dấu một bước phát triển mới trong nhận thức, các nhà kinh tế học theo trường phái tự nhiên quan niệm tỷ giá là một con số dùng để chuyển đổi từ đồng tiền nước nay sang đồng tiền nước khác. Theo các nhà kinh tế học hiện đại, tỷ giá được hiểu đơn giản là giá của đồng ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Với cách định nghĩa này, tỷ giá tăng lên cũng có nghĩa là giá của đồng bản tệ giảm xuống. Mặt khác tỷ giá cũng có thể được hiểu là giá của đồng nội tệ, nếu theo cách hiểu này thì tỷ giá tăng có nghĩa là giá của đồng nội tệ tăng. 2, Chức năng của tỷ giá. Chức năng so sánh sức mua giữa các đồng tiền để thấy được năng suát lao động, giá thành, giá cả, hiệu quả trong kinh tế đối ngoại để từ đó có các biẹn pháp điều chỉnh kinh tế. Thêm vào đó, tỷ giá còn có chức năng khuyến khích, Nhà nước hoàn toàn có thể điều tiết tỷ giá để khuyến khích các ngành, chủng loại hàng hoá tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại. Với chức năng thứ ba là chức năng phân phối, tỷ giá có khả năng phân phối lại thu nhập giữa các ngành hàng tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại, có khả năng phân phối lại thu nhập giữa các nước có quan hệ kinh tế với với nhau. Ngoài ra, tỷ giá còn được sử dụng như là vũ khí cạnh tranh trong thương mại để giành giật thị trường. Tỷ giá cân bằng trên thị trường Tỷ giá hối đoái cân bằng là mức tỷ giá mà ở đó cung và cầu về nội tệ trên thị trường ngoại hối bằng nhau. Cầu về nội tệ được sinh ra từ hai nguồn: Lượng hàng hoá dịch vụ và tài sản trong nước mà người nước ngoài muốn mua; và hai là lượng vốn và các khoản chuyển nhượng vào trong nước. Ví dụ, người Nhật muốn mua hàng hoá của Việt Nam hay muốn gửi tiền sang Việt Nam thì phải đổi tiền Yên lấy đồng Việt Nam, do đó tạo nên cầu về đồng Việt Nam trên thị trường ngoại hối. Cung nội tệ cũng được sinh ra từ hai nguồn: một là lượng hàng hoá, dịch vụ và tài sản nước ngoài mà người trong nước muốn mua; hai là lượng vốn và các khoản chuyển nhượng từ trong nước ra nước ngoài. Người Việt Nam muốn nhập khẩu hàng hoá của Nhật thì phải bỏ tiền đồng của Việt Nam để mua lấy đồng Yên Nhật rồi mới có thể nhập khẩu hàng hoá. Tỷ giá cân bằng trên thị trường chính là do sự tương tác giữa cung và cầu nội tệ. Khi tỷ giá tăng thì cung nội tệ tăng và cầu nội tệ giảm; tỷ giá giảm thì cung giảm, cầu tăng. Nguyên nhân có sự thay đổi là vì khi tỷ giá tăng, tức đồng ngoại tệ xuống giá hay đồng Việt Nam lên giá, thì giá cả hàng hoá trong nước trở nên đắt hơn với người nước ngoài làm cho họ giảm mua hàng hàng hoá nước ta. Như vậy khi cầu nội tệ tăng từ D1 đến D2 sẽ làm cho tỷ giá tăng từ e1 đến e2 như trên đồ thị. Trường hợp đối với một nền kinh tế nhỏ, mở cửa trong điều kiện vốn tự do chu chuyển. Y= C(Y - T) + I(r*) + G + NX(e) IS* M/P = L(r*.Y). Như vậy, trong một nền kinh tế nhỏ, mở cửa, lãi suất cố định thì tỷ giá có thể thay đổi. 3, Tỷ giá hối đoái thực và danh nghĩa. Chính những chức năng đó đã nói lên tỷ giá là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng. Vì vậy trong quá trình công nghiệp hoá của mình, hầu hết các nước đều tìm cách phá giá đồng tiền của mình để kích thích xuất khẩu và giảm động cơ tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu. Có thể nói với cùng một mức tỷ giá danh nghĩa mà tỷ lệ lạm phát của một quốc gia cao hơn tỷ lệ lạm phát của nước đối tác trong quan hệ kinh tế thì hàng hoá của quốc gia đó có khả năng cạnh tranh kém hơn hàng hoá của nước đối tác. Do đó, để so sánh khả năng cạnh tranh của các quốc gia người ta thường sử dụng tỷ giá hối đoái thực do đã loại trừ ảnh hưởng của lạm phát. Tỷ giá hối đoái thực được xác định như sau: eNP er = -------- P* PT er = -------- PN Trong đó: eN là tỷ giá hối đoái trong nước. P là chỉ số giá trong nước. P* là chỉ số giá ở nước ngoài PT là chỉ số giá hàng hoá có thể ngoại thương PN là chỉ số giá hàng hoá không thể ngoại thương được. Sự khác biệt quan trọng giữa tỷ giá hối đoái thực và tỷ giá hối đoái danh nghĩa là ở chỗ tỷ giá hối đoái danh nghĩa so sánh giá trị của các đồng tiền trong khi tỷ giá hối đoái thực so sánh giá của một rổ hàng hoá giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Tỷ giá hối đoái thực là chỉ tiêu quan trọng để phân tích khả năng cạnh tranh của các nước xuất khẩu. Đồng nghĩa với giá trị đồng nội tệ giảm là khả năng cạnh tranh của hàng hoá nước đó tăng lên và ngược lại. 4, Tỷ giá hối đoái ngang bằng sức mua Nguyên lý ngang bằng sức mua (PPP) tuân theo quy luật một giá được phát biểu như sau: tỷ giá hối đoái ngang bằng sức mua phản ánh sức mua của đồng tiền tại hai nước. Tỷ giá hối đoái PPP tuyệt đối là: P* e = ------- P Trong đó: P và P* được hiểu là chỉ số giá tiêu dùng hay chỉ số giá bán buôn. Khi tính đến sự xuất hiện của thuế quan, chi phí lưu thông, và nhiều hàng hoá phi ngoại thương được bao gồm trong chỉ số giá thì tỷ giá hối đoái thực không còn được giữ đúng nữa.Tuy vậy tỷ giá này vẫn giữ đúng về tương đối. Nghĩa là mức thay đổi trong tỷ giá hối đoái sẽ phản ánh sự chênh lệch trong mức thay đổi của giá cả và tỷ giá hối đoái ngang bằng sức mua là tỷ giá được xác định dựa trên cơ sở duy trì khả năng cạnh tranh của mỗi quốc gia. % e = % P* - % P. 5, Chế độ tỷ giá Thực chất của chế độ tỷ giá là việc các chính phủ đặt ra các điều kiện để xác định tỷ giá. Cho đến nay đã có ba chế độ tỷ giá là: tỷ giá cố định, tỷ giá thả nổi và tỷ giá thả nổi có điều tiết. Trước hết, chế độ tỷ giá cố định được áp dụng phổ biến ở các quốc gia từ trước năm 1973. Đó là một chế độ mà tỷ giá được xác định thông qua ngang giá vàng. Dưới chế độ này, nếu cầu đồng ngoại tệ vượt quá cung khi có sự thâm hụt trong cán cân thanh toán thì Ngân hàng trung ương sẽ tung ngoại tệ ra bán trên thị trường để tạo ra sự cân bằng cung cầu ngoại tệ. Động thái này có thể sẽ dẫn đến sự thiếu hụt trong lượng ngoại tệ dự trữ. Tuy vậy, cũng không thể phủ nhận rằng chế độ tỷ giá cố định có tác dụng rất tích cực trong việc thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế. Chính sự biến động của tỷ giá là nguyên nhân làm cho kết quả kinh doanh trở nên không chắc chắn và làm phát sinh rủi ro trong các giao dịch quốc tế và kìm hãm tăng trưởng và phát triển doanh số của các giao dịch này. Chế độ tỷ giá cố định còn buộc các chính sách kinh tế vĩ mô phải có kỷ luật hơn. Vì một khi các chính phủ đã cam kết duy trì tỷ giá cố định nghĩa là họ đã tự nguyện chấp hành kỷ luật trong chính sách kinh tế vĩ mô. Khi chính sách kinh tế vĩ mô tỏ ra lỏng lẻo sẽ làm tăng áp lực phá giá tiền tệ. Ngoài ra, để duy trì chế độ tỷ giá này phải tồn tại một mức độ hợp tác quốc tế nhất định giữa các quốc gia. Các quốc gia thoả thuận cố định tỷ giá thường cũng thoả thuận những biện pháp đi kèm để thực hiện khi tỷ giá chịu áp lực tăng lên hay giảm xuống. Như đã nói ở trên, muốn giữ được tỷ giá cố định cần có một lượng dự trữ ngoại tệ đáng kể để có thể can thiệp một cách kịp thời tránh những biến động quá lớn. Tỷ lệ lạm phát không đồng đều do việc tăng cung ứng tiền tệ, bù đắp cho thâm hụt ngân sách đã làm cho việc duy trì tỷ giá cố định trở thành không thể. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chế độ tỷ giá cố định và thay thế bởi chế độ tỷ giá thả nổi từ năm 1973. Chế độ tỷ giá thứ hai là chế độ tỷ giá thả nổi, ở chế độ này chính phủ hoàn toàn không can thiệp vào thị trường ngoại hối mà tỷ giá được tự do xác lập do quan hệ cung cầu thị trường. Về mặt lợi thế, tỷ giá thả nổi nên nó luôn tự điều chỉnh để đảm bảo cân bằng thường xuyên trong cung cầu tiền tệ trên thị trường ngoại hối. Trong trường hợp một quốc gia bị thâm hụt cán cân vãng lại, đồng nội tệ giảm giá, dẫn đến nhập khẩu giảm và xuất khẩu tăng cho đến khi nào cán cân trở lại cân bằng và ngược lại. Chế độ này còn cho phép chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ độc lập theo quan điểm riêng. Theo đó, các quốc gia có thể tự xác định mức lạm phát tuỳ theo từng hoàn cảnh cụ thể. Những quốc gia ưu tiên mức lạm phát thấp được tự do áp đặt chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt sẽ qua thời kỳ nội tệ lên giá. Một điều đáng nói nữa là với tỷ giá thả nổi, nền kinh tế cách ly được những ảnh hưởng các cú sốc về giá cả từ bên ngoài. Nếu giá nước ngoài tăng thì tỷ giá sẽ thay đổi phù hợp với điều kiện tỷ giá hối đoái ngang bằng sức mua, nghĩa là nội tệ sẽ lên giá để ngăn ngừa lạm phát ở mức không mong muốn. Từ đó, tỷ giá thả nổi sẽ góp phần ổn định kinh tế, tỷ giá biến động lên xuống được trong khi đó giá cả lại rất khó có thể giảm được. Khi nền kinh tế giảm sức cạnh tranh quốc tế thì tốt nhất là để mặc cho nội tệ giảm giá hơn là cố định tỷ giá để rồi phải áp dụng các chính sách để điều chỉnh giá trị đồng tiền một cách tốn kém để khôi phục sức cạnh tranh quốc tế mà hậu quả của nó là làm tăng tỷ lệ thất nghiệp, giảm tiền lương. Song thực tế đã chững minh rằng chế độ tỷ giá thả nổi thiếu sự điều tiết của nhà nước lại cộng thêm tình trạng đầu cơ tài chính đầy rủi ro nên tỷ giá đã biến động mạnh, phân phối các nguồn lực cho phát triển kinh tế nên hiệu quả không cao. Mặc dù tỷ giá hiện nay được phép thay đổi hàng ngày để đáp ứng những lực lượng thị trường, nhưng các ngân hàng Trung Ương vẫn có những động thái nhằm ngăn chặn những thay đổi lớn của tỷ giá. Điều này khiến các hãng và cá nhân được dễ dàng hơn trong việc mua hoặc bán hàng hoá ra ngoài để lập kế hoạch cho tương lai. Hơn nữa, các nước có cán cân thanh toán dư thừa thường không muốn thấy đồng tiền của mình tăng giá quá nhiều vì nó làm cho hàng hoá của họ đắt hơn một cách tương đối so với hàng hoá trên thị trương nước ngoài và hàng hoá của nước ngoài rẻ hơn trên thị trường nội địa của họ. Trái lại, các nước có cán cân thanh toán thâm hụt không muốn thấy đồng tiền nước mình giảm giá trị vì sẽ làm cho hàng hoá nước ngoài đắt hơn đối với người tiều dùng trong nước và có thể thúc đẩy lạm phát. Sau khi chế độ tỷ giá thả nổi sụp đổ, chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý là một sự thay thế tốt nhất, vừa tận dụng được ưu điểm vừa hạn chế những nhược điểm của hai chế độ tỷ giá trên. Đó cũng là lý do mà hiện nay chế độ tỷ giá này được áp dụng phổ biến ở hầu hết các quốc gia. II, Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá và tác động của nó đối với nền kinh tế. 1, Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá. Cung và cầu ngoại hối trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và nhạy bén đến sự biến động của tỷ gía hối đoái. Nói chung, mức cầu tiền tệ thường biến đổi ngược chiều với tỷ giá hối đoái. Ví dụ như Nếu USD tăng giá so với VND hàng nhập về với giá cao, khó tiêu thụ nên mức cầu về hàng nhập giảm, đưa đến mức cầu USD cũng giảm theo và đồng USD cũng giảm. Trái lại, khi tỷ giá VND so với USD giảm nên hàng nhập về sẽ rẻ hơn, do đó nhà nhập khẩu mua nhiều USD hơn tức mức cầu USD tăng nhiều, từ đó tỷ giá có thể tăng trở lại và người nhập sẽ không mua USD để nhập hàng thêm nữa, USD có thể trở lại mức giá bình thường. Ngoài ra mức chênh lệch lạm phát cũng có thể ảnh hưởng đến tỷ giá, với một mức tỷ giá cân bằng nước nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn thì đồng tiền mất giá nhiều hơn. Xuất phát từ công thức: enP er= ----- P* Dễ thấy, khi lạm phát ở trong nước tăng cao hơn so với lạm phát ở nước ngoài, P sẽ tăng cao hơn P* làm cho tỷ giá thực tế tăng. Tỷ giá còn chịu tác động rất lớn của tình hình cán cân thanh toán quốc tế của một nước. Khi mức cung ngoại tệ trên thị trường hối đoái lớn hơn mức cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái sẽ tăng tức giá ngoại tệ tính bằng nội tệ sẽ giảm. Trái lại nếu cán cân thanh toán quốc tế của một nước bị thiếu hụt, có nghĩa là tổng số chi ngoại tệ lớn hơn tổng số thu ngoại tệ tức cầu ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ; tỷ giá hối đoái sẽ giảm, ngoại tệ tăng giá và nội tệ giảm giá. Tình hình chính trị, kinh tế của một nước cũng ảnh hưởng không nhỏ. tình hình chính trị ổn định sẽ tăng cường cơ hội thu hút vốn ngoại tệ từ nước ngoài vào trong nước khiến tăng mức cung ngoại tệ; đồng thời người trong nước không muốn chuyển vốn ra nước ngoài mà để đầu tư trong nước khiến mức cầu ngoại tệ có thể thay đổi. Kết quả là tỷ giá hối đoái có thể tăng, giá ngoại tệ giảm và tất nhiên giá nội tệ tăng. Nếu tình hình kinh tế chính trị có những diễn biến ngược lại mức cầu ngoại tệ sẽ lớn hơn mức cung ngoại tệ vì người có vốn trong nước và vốn của ngứoc ngoài ở trong nước có chiều hướng mua hoặc chuyển đổi ngoại tệ để chuyển vào trong nước, nên tỷ giá hối đoái có thể giảm. Hơn thế nữa những người có vốn ở nước ngoài sẽ e ngại mà không chuyển vốn vào trong nước. Đó cũng là lý do làm giảm tỷ giá hối đoái. Nhân tố thứ ba phải kể đến là vấn đề đầu cơ tiền tệ. Trên thị trường hối đoái, những người kinh doanh tiền tệ, tức mua và bán tiền nhằm mục đích kiếm lời. Nếu dự đoán một loại tiền nào đó sẽ tăng giá, tức khắc người ta mua loại tiền đó khi giá mua còn thấp để bán lại sau khi giá lên cao, hưởng chênh lệch giá. Khi dự kiến một loại tiền nào đó sẽ giảm giá và giảm đến mức nào đó sẽ tăng trở lại, họ lập tức bán ra đồng tiền sắp mất giá để sau đó mua lại số đó mà vẫn được hưởng chênh lệch giá. Những việc làm như vậy cũng làm cho mức cung và mức cầu ngoại tệ thay đổi và dẫn đến làm thay đổi tỷ giá. Hơn thế nữa, nền kinh tế của một nước tăng trưởng, mức lợi tức tính theo đầu người gia tăng hay thu nhập thực tế của người dân tăng. Dẫn đến một thực tế là nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu tăng do đó làm tăng cung đồng nội tệ để mua ngoại tệ tăng lên làm cho tỷ giá giảm. Điều này cũng có thể đúng khi xuất hiện một sản phẩm mới ở nước ngoài mà người trong nước biết được. Nhu cầu mới được kích thích, gây áp lực tăng cường nhập khẩu, làm tỷ giá biến động giảm. Một nhân tố không thể không kể đến và có tác động rất lớn đến tỷ giá hối đoái là mức chênh lệch lãi suất giữa các nước. Nước nào có lãi suất cáo hơn sẽ thu hút được vốn ngoại tệ vào nhiều hơn và tăng mức cầu về đồng nội tệ và làm tăng tỷ giá. 2, Tác động của tỷ giá đối với nền kinh tế. Nhìn chung, nhân tố nào ảnh hưởng đến tỷ giá đều bị tỷ giá tác động ngược trở lại. Trước hết, đối với cán cân thanh toán quốc tế, khi cán cân thanh toán bị thâm hụt sẽ làm giảm tỷ giá. Nhưng tỷ giá giảm lại khuyến khích xuất khẩu, bù đắp dần cán cân thanh toán và có thể đưa cán cân thanh toán trở cân bằng trở lại. Như dã phân tích ở trên, khi tỷ giá trên thị trường giảm xuống thị người nước ngoài có khuynh hướng mua hàng trong nước nhiều hơn trong khi người trưong nước muốn mua hàng của nước ngoài ít hơn. Tỷ giá giảm làm cho xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm, làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước nếu tương quan giá cả không có sự thay đổi. Vì vậy có thể nói, tỷ giá hối đoái có khả năng làm thay đổi sức cạnh tranh quốc tế. Cũng vậy, tác động của tỷ giá đối với lãi suất, một công cụ đắc lực trong điều hành, quản lý kinh doanh, góp phần gia tăng cạnh tranh và là động lực thúc đẩy các hoạt động đầu tư, tiêu dùng, khi tỷ giá biến động tăng, gây bất lợi cho nền kinh tế buộc ngân hàng trung ương phải can thiệp bằng nhiều cách. Một trong số đó là thay đổi lãi suất chiết khấu. Việc làm này có thể làm thay đổi toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội. Ví dụ, tỷ giá giảm ngân hàng trung ương sẽ điều chỉnh tăng lãi suất chiết khấu, các ngân hàng thương mại cũng sẽ phải tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động. Trong nước, các doanh nghiệp sẽ hạn chế vay và dân cư cắt giảm chi tiêu làm tăng cung về đồng nội tệ. Ngoài nước, việc làm đó sẽ thu hút đầu tư từ nước ngoài, tăng vốn tiền gửi ngắn hạn và tăng cung ngoại tệ. Hoặc ngân hàng trung ương có thể can thiệp trực tiếp vào thị trường tiền tệ, tổ chức kinh doanh ngoại hối, thực hiện việc bán, mua ngoại tệ khi tỷ giá biến động giảm hoặc tăng. Như dã phân tích ở trên, khi tỷ giá trên thị trường giảm xuống thị người nước ngoài có khuynh hướng mua hàng trong nước nhiều hơn trong khi người trưong nước muốn mua hàng của nước ngoài ít hơn. Tỷ giá giảm làm cho xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm, làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước nếu tương quan giá cả không có sự thay đổi. Vì vậy có thể nói, tỷ giá hối đoái có khả năng làm thay đổi sức cạnh tranh quốc tế. Chỉ một sự thay đổi bất lợi hay sự biến động đột ngột của tỷ giá cũng có thể là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của bất kỳ một nền kinh tế nào. Do đó, các biện pháp bình ổn tỷ giá là cần thiết để điều chỉnh tỷ giá theo hướng có lợi. 3, Các chính sách can thiệp vào tỷ giá hối đoái 3.1, Chính sách phá giá tiền tệ Phá giá là làm giảm giá đồng tiền trong nước so với đồng tiền nước ngoài, có nghĩa là làm cho tỷ giá danh nghĩa giảm xuống. Chính phủ áp dụng chính sách này nhằm hy vọng rằng sẽ giúp gia tăng sản lượng, giảm bớt thất nghiệp và cải thiện cán cân ngoại thương. Đây là loại chính sách mở rộng. Muốn phá giá, ngân hàng trung ương phải bỏ nội tệ ra mua ngoại tệ vào. Cung nội tệ tăng làm giảm tỷ giá. Khi phá giá, nếu như giá cả của hàng hoá trong nước và nước ngoài không đổi, tỷ giá hối đoái thực sẽ giảm, làm tăng sức cạnh tranh của hàng trong nước. Nhờ vậy khả năng xuất khẩu được nhiều hơn và hạn chế nhập khẩu, gia tăng tổng cầu. Đối với một nền kinh tế nhỏ, mở cửa, sự mở rộng tiền tệ làm cho lãi suất trong nước giảm, dẫn tới một dòng vốn chảy ra và đồng nội tệ giảm giá, xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm. Điều này làm tăng tổng thu nhập. Các chính phủ cũng áp dụng chính sách phá giá chỉ nhằm mục đích cai thiện cán cân ngoại thương. Điều này chỉ xảy ra khi sản lượng đã đạt mức tiềm năng. Lúc đó nếu đơn thuần phá giá sẽ kéo theo sự giá tăng nhanh chóng của giá cả, dẫn đến tình trạng lạm phát cao. Muốn tránh lạm phát cao chính phủ cần áp dụng chính sách siết chặt tài chính đồng thời với việc phá giá. Nếu chỉ nhằm vào việc cải thiện cán cân ngoại thương thì chính sách phá giá phải đi kèm chính sách siết chặt tài chính và trong điều kiện giá cả trong nước và ở nước ngoài không đổi. 2, Chính sách nâng giá tiền tệ. Chính sách nâng giá là làm tăng giá đồng nội
Luận văn liên quan