Tiểu luận Những tác động của GATS đối với các nước đang phát triển

Ngày nay, dịch vụ phát triển vô c ùng nhanh chóng, từ một ngành phát triển tự phát, chiếm tỉ trọng nhỏ bé trong nền kinh tế, dịch vụ đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm nhiều hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác. Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, tự do hoá thương mại dịch vụ là một điều tất yếu. Tuy nhiên để thương mại dịch vụ phát triển có hiệu quả thì cần phải xây dựng một khuôn khổ hoạt động có tính thống nhất trong lĩnh vực này. Để có được một quy tắc đa phương điều chỉnh hoạt động thương mại dịch vụ quốc tế, các nước thành viên WTO đã tiến hành đàm phán thương lượng. Kết quả là trong khuôn khổ của WTO, tại vòng đàm phán Uruguay diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994, các nước thành viên của GATT đã thông qua Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (General Agreement on Trade in Services, viết tắt là GATS). Hiệp định được thiết lập nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của hệ thống thương mại đa phương sang lĩnh vực dịch vụ chứ không điều chỉnh một mình lĩnh vực thương mại hàng hóa như trước đó. Đây là một trong ba Hiệp định đóng vai trò nền tảng cơ bản của Tổ chức thương mại Thế giới

pdf21 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3074 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những tác động của GATS đối với các nước đang phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Tiểu luận Những tác động của GATS đối với các nước đang phát triển 2 LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, dịch vụ phát triển vô cùng nhanh chóng, từ một ngành phát triển tự phát, chiếm tỉ trọng nhỏ bé trong nền kinh tế, dịch vụ đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm nhiều hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác. Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, tự do hoá thương mại dịch vụ là một điều tất yếu. Tuy nhiên để thương mại dịch vụ phát triển có hiệu quả thì cần phải xây dựng một khuôn khổ hoạt động có tính thống nhất trong lĩnh vực này. Để có được một quy tắc đa phương điều chỉnh hoạt động thương mại dịch vụ quốc tế, các nước thành viên WTO đã tiến hành đàm phán thương lượng. Kết quả là trong khuôn khổ của WTO, tại vòng đàm phán Uruguay diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994, các nước thành viên của GATT đã thông qua Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (General Agreement on Trade in Services, viết tắt là GATS). Hiệp định được thiết lập nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của hệ thống thương mại đa phương sang lĩnh vực dịch vụ chứ không điều chỉnh một mình lĩnh vực thương mại hàng hóa như trước đó. Đây là một trong ba Hiệp định đóng vai trò nền tảng cơ bản của Tổ chức thương mại Thế giới. Hòa cùng xu thế chung của nền kinh tế thế giới, các ngành dịch vụ của các nước đang phát triển đã có những bước phát triển rất đáng kể, trở thành ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất trong GDP. Tuy vậy, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc mở cửa thị trường dịch vụ theo khuôn khổ Hiệp định GATS sẽ đặt các ngành dịch vụ của của các nước đang phát triển trước những cơ hội và thách thức to lớn. Trước những trăn trở trên, thông qua bài tiểu luận này, người viết mong muốn có thể phân tích về GATS ( Hiệp định chung về Thương mại và dịch vụ) và những tác động của GATS đối với các nước đang phát triển trong thời đại ngày nay. 3 I. TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ. 1.Thương mại dịch vụ. 1.1. Định nghĩa Thương mại dịch vụ. 1.1.1. Định nghĩa về Thương mại. Thương mại là hoạt động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ v.v giữa hai hay nhiều đối tác, và có thể nhận lại một giá trị nào đó (bằng tiền thông qua giá cả) hay bằng hàng hóa, dịch vụ khác như trong hình thức thương mại hàng đổi hàng (barter). Trong quá trình này, người bán là người cung cấp của cải, hàng hóa, dịch vụ... cho người mua, đổi lại người mua sẽ phải trả cho người bán một giá trị tương đương nào đó1 1.1.2. Định nghĩa về Dịch vụ Dịch vụ trong kinh tế học, được hiểu là những thứ tương tự như hàng hóa nhưng là phi vật chất. 2 1.1.3. Định nghĩa về Thuơng mại dịch vụ. Thương mại dịch vụ là việc mua bán, trao đổi các sản phẩm phi vật chất.3 1.2. Bối cảnh ra đời của Thương Mại dịch vụ. Thương mại dịch vụ không phải là một hiện tượng mới. Điều này được minh chứng từ những năm 1088, khi trường đại học đầu tiên được thành lập ở Bologna đã có bộ môn Thương mại dịch vụ. Tuy vậy, trong suốt một thời gian dài, người ta không nhận thấy sự cần thiết của thương mại dịch vụ vì theo truyền thống, hầu hết các hoạt động dịch vụ đều là những hoạt động diễn ra trong phạm vi một quốc 1 2 3 4 gia và khó có thể tiến hành giao dịch qua biên giới. Chẳng hạn như khi chúng ta đi cắt tóc hoặc đi khám bệnh, thường thì cả người cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ đều là người trong cùng một nước. Hơn nữa, một số lĩnh vực như vận tải đường sắt hay viễn thông thường được xem như những lĩnh vực mà nhà nước nắm toàn quyền sở hữu và kiểm soát do tầm quan trọng về cơ sở hạ tầng của các lĩnh vực này cũng như bản chất độc quyền tự nhiên của nhà nước. Những lĩnh vực quan trọng khác như y tế, giáo dục, và dịch vụ bảo hiểm cơ bản được nhiều quốc gia coi là bổn phận của nhà nước do tầm quan trọng của những lĩnh vực trên đối với xã hội và liên kết các vùng miền.Vì thế, những lĩnh vực dịch vụ này được kiểm soát rất chặt chẽ và việc cung cấp chúng không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ tài chính quốc tế và vận tải biển, từ hàng thế kỷ nay đã có sự trao đổi xuyên biên giới. Đây là những lĩnh vực hỗ trợ đắc lực cho thương mại hàng hóa phát triển. Những lĩnh vực khác cũng đang trải qua những thay đổi cơ bản mang tính kỹ thuật cũng như những thay đổi về luật lệ điều chỉnh, dẫn đến việc tham gia ngày càng nhiều hơn của khu vực tư nhân và sự giảm dần các hàng rào cản trở cho những chủ thể muốn tham gia. Sự phát triển của giao thông vận tải, thông tin liên lạc và Internet cũng khiến cho ngày càng có nhiều loại dịch vụ có thể thực hiện được khi người cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ có quốc tịch khác nhau. Những dịch vụ như ngân hàng điện tử, khám bệnh từ xa, hay du học, phát triển được chính là nhờ điều đó. Nhiều chính phủ cũng đã cho phép cạnh tranh trong những lĩnh vực dịch vụ mà trước đây họ giữ độc quyền, chẳng hạn như viễn thông. Trong sự phát triển tự nhiên của nền kinh tế thế giới, dịch vụ là lĩnh vực tăng trưởng nhanh nhất; chiếm 60% sản xuất trên toàn thế giới, tạo ra 30% việc làm và chiếm gần 20% thương mại quốc tế.4 Đây là một trong những tiền đề để ý tưởng đưa các quy định về dịch vụ vào hệ thống thương mại đa biên được nêu ra vào đầu và giữa những năm 80, tuy rằng một số nước đã tỏ ra nghi ngại, thậm chí còn phản đối. Họ cho rằng một hiệp định như vậy có thể ảnh hưởng xấu tới khả năng các chính phủ theo đuổi những mục tiêu chính sách quốc gia và hạn chế khả năng điều tiết của chính phủ. Tuy vậy, sự 4 ‘Trade, Environment and Sustainable Development: A Developing Country View of the Issues, Including in the WTO Context.’ Unpublished paper, Penang. 1996 5 phát triển ngày càng vượt trội của thương mại dịch vụ đòi hỏi phải có hiệp định được soạn thảo một cách hết sức mềm dẻo, cả về mặt quy định chung lẫn những cam kết cụ thể để tiếp cận thị trường.5 1.3. Sự ra đời của hiệp định thương mại dịch vụ trong khuôn khổ WTO là một tất yếu khách quan: 1.3.1. Sự cần thiết của hiệp định thương mại dịch vụ trong khuôn khổ WTO đối với các nước phát triển Ngay từ những năm cuối của thập nhiên 70, trước các cuộc khủng hoảng xảy ra liên tục trên thế giới do tác động của giá dầu tăng chóng mặt, nhiều nước nhận ra rằng các hoạt động mà trước đây chỉ được coi là bổ trợ cho hoạt động sản xuất của cải vật chất lại có thể đóng góp quan trọng vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP quốc gia và tạo ra khối lượng giá trị gia tăng rất lớn. Nhiều tập đoàn đa quốc gia trong lĩnh vực dịch vụ lúc đó như American International Group (AIG), American Express càng trở nên hùng mạnh hơn bao giờ hết do nhận được sự quan tâm và đầu tư của Chính phủ. Khi thị trường trong nước đã trở nên bão hoà các tập đoàn này để ý tới thị trường của các nước đang phát triển với dân số đông đúc và tiềm năng phát triển hùng hậu6 Tuy nhiên, trong thời gian đó, hầu hết các nước đang phát triển đều thực hiện chính sách kiểm soát chặt chẽ đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ. Việc đưa lĩnh vực dịch vụ vào khuôn khổ đa biên để tiến hành tự do hoá là hầu như không khả thi. Trước tình thế này, dưới sức ép của các tập đoàn đa quốc gia chính quyền các nước phát triển đã liên tục đưa ra các đề nghị tự do hoá dịch vụ để đánh đổi với quyền tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực khác.Có thể nói, một hệ thống qui tắc thương mại quốc tế đáng tin cậy trong lĩnh vực dịch vụ cần được thành lập và xây dựng là rất cần thiết với các quốc gia phát triển lúc này. Một hiệp định cần thiết để điều chỉnh quan hệ kinh tế quốc tế ra đời lúc này là kết quả của một sự “cưỡng ép” từ phía các nước phát triển hay 5 ‘Responding to the Challenges of Globalization.’ Paper presented at the G77/UNDP seminar on Globalization, Kuala Lumpur, December. 2000. 6 ‘Trade Related Investment Measures.’ In UNCTAD, Positive Agenda and Future Trade Negotiations. Geneva: UNCTAD. 2000. 6 nói chính xác hơn là từ một số cường quốc có thế mạnh về dịch vụ đối với các nước đang và kém phát triển. 7 1.3.2. Sự cần thiết của hiệp định thương mại dịch vụ đối với các nước đang phát triển: Thương mại dịch vụ không chỉ đem lại lợi ích cho cả các nước phát triển mà cả các nước đang phát triển. Bất chấp quan niệm ở phần lớn các nước đang phát triển rằng họ sẽ bị thua thiệt bởi các ngành dịch vụ nội địa có khả năng cạnh tranh yếu và tính hiệu quả thấp, thực sự thường là các nước đang phát triển sẽ đạt được nhiều lợi ích đáng kể. Việc thương mại dịch vụ đã và đang chiếm tỷ trọng khoảng 50% GNP ở các nước đang phát triển đã minh chứng cho điều này. Báo cáo của UNCTA đã chỉ rõ: “tầm quan trọng ngày càng tăng của dịch vụ với tư cách là phần đóng góp lớn nhất cho GDP và tạo công ăn việc làm. Tiềm năng xuất khẩu dịch vụ to lớn có ở tất cả các nước đang phát triển không phụ thuộc vào trình độ phát triển của mình”. 8Điều này được minh chứng bằng thực tiễn là trong những năm qua, thương mại dịch vụ ở các nước đang phát triển tăng lên rất mạnh. Ví dụ, xuất khẩu dịch vụ ở các nước Châu Á đều tăng lên 12%/năm trong cả giai đoạn 1990-1997 và 1995- 1997. Các nước Mỹ Latinh cũng ghi nhận mức tăng trưởng xuất nhập khẩu là 8%/năm9. Thương mại dịch vụ cũng làm tăng sự trao đổi giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển. Nhiều công ty ở các nước đang phát triển là những nhà xuất khẩu lớn sang các nước đang phát triển. Tuy vậy, thương mại quốc tế nói chung cũng như thương mại dịch vụ nói riêng không chỉ đem đến những thời cơ mà cả những thách thức cho các nước đang phát triển.Xuất khẩu dịch vụ với quy mô lớn vẫn do các nước có trình độ phát triển cao thực hiện. Các nước đang phát triển lại thường là những nước nhập siêu về dịch vụ. Xuất khẩu của các nước đang phát triển bị cản trở bởi các hạn chế về tiếp cận thị trường của cả các nước đang phát triển và phát triển, cũng như các hạn chế của chính quy định của các 7 ‘Analysis of Dispute Settlement System of WTO.’ Unpublished paper, Geneva. 8 9 ‘Latin-Asian Elements for GATS Negotiating Guidelines,’ SUNS #4799, 7 December. 7 nước10. Vì vậy, để có thể tham gia vào hệ thống thương mại dịch vụ thế giới với mục tiêu đạt được lợi ích tối đa của mình cũng như hạn chế tối thiểu các tác động tiêu cực của quá trình này, tạo sân chơi cân bằng hơn với các nước phát triển, các nước đang phát triển cũng nhận thấy sự cần thiết của hệ thống qui tắc thương mại quốc tế đáng tin cậy trong lĩnh vực dịch vụ, đảm bảo một sự đối xử công bằng và không phân biệt đối với tất cả những người tham gia. . . , thúc đẩy hoạt động kinh tế thông qua các chính sách ràng buộc và được bảo đảm; xúc tiến và phát triền thương mại dịch vụ thông qua các tiến trình tự do hóa cấp tiến. Trong khuôn khổ WTO, vòng đàm phán Doha là vòng đàm phán đầu tiên đàm phán về thương mại dịch vụ trong số 9 vòng đàm phán đa phương kể từ lúc GATT ra đời ( năm 1947). Trước đó, vòng đàm phán Urugoay (vòng đàm phán đa phương thứ 8 –kết thúc năm 1994) đã xây dựng cơ sở pháp lý cho thương mại dịch vụ mà nền tảng của nó là Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS). Các cuộc đàm phán sau đó đều dựa trên các quy tắc của GATS. 2. GATS 2.1. Định nghĩa GATS Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS- General Agreement on Trade and Services) là một hiệp định thuộc hệ thống WTO ra đời năm 1995, quy định các nguyên tắc về thương mại dịch vụ.11 2.2. Mục tiêu của GATS GATS được xây dựng nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên WTO, cụ thể là: - Tạo ra một hệ thống các quy tắc thương mại quốc tế đáng tin cậy. - Đảm bảo đối xử bình đẳng và công bằng đối với tất cả các bên tham gia ( nguyên tắc không phân biệt đối xử) 10 ‘The WTO Trade Order: Advantage for Whom?’ Third World Economics, No. 101, 16-30 November. 11 GATS: How the World Trade Organization's New ‘Services’ Negotiations Threaten Democracy. Ottawa: Canadian Centre for Policy Alternatives. Sinclair, Scott. 2000. 8 - Thúc đẩy các hoạt động kinh tế thông qua việc cam kết chính sách - Thúc đẩy thương mại và phát triển thông qua tự do hóa dần dần ( tạo điều kiện để doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tiếp cận khách hàng dễ dàng hơn, đặc biệt là khách hàng ở thị trường nước khác) 2.3 Nội dung của GATS Với những mục tiêu cụ thể như trên, GATS gồm 3 nhóm nhóm nội dung. Nhóm nội dung thứ nhất quy định khung pháp lý liên quan đến các nghĩa vụ cơ bản áp dụng với tất cả các thành viên. Nhóm nội dung thứ hai liên quan đến các danh mục cam kết trên quy mô quốc gia bao gồm các cam kết cụ thể hơn về tiến trình tự do hóa. Nhóm nội dung thứ ba gồm các phụ lục về các trường hợp đặc biệt liên quan đến từng ngành dịch vụ cụ thể. 2.3.1. Nhóm nội dung thứ nhất bao gồm phần I và phần II: Phần I của hiệp định cơ bản đã vạch rõ phạm vi điều chỉnh – đặc biệt là các dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một nước thành viên sang lãnh thổ của nước thành viên khác; các dịch vụ được cung cấp trong lãnh thổ của một nước thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kỳ nước thành viên nào khác (ví dụ, dịch vụ du lịch); các dịch vụ được cung cấp thông qua sự hiện diện thương mại của một nước thành viên trên lãnh thổ của bất kỳ nước thành viên nào khác (ví dụ, dịch vụ ngân hàng); các dịch vụ được cung cấp thông qua các thể nhân của một nước thành viên này trên lãnh thổ của bất kỳ nước thành viên nào khác (ví dụ, các công trình xây dựng hay các văn phòng tư vấn). Phần II của hiệp định đặt ra các nghĩa vụ và nguyên tắc chung. Một nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc (MFN) cơ bản quy định rằng mỗi thành viên “phải ngay lập tức và vô điều kiện dành cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ của bất kì nước thành viên nào không ít hơn mức đãi ngộ của nước này dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự của nước khác”. Tuy nhiên, hiệp định cũng công nhận rằng đối xử MFN có thể không áp dụng với mọi hoạt động dịch vụ và do vậy hiệp định đề xuất các bên có thể đưa ra các ngoại lệ MFN cụ thể. Các điều kiện cho những ngoại lệ này được quy định tại một phụ lục cho phép rà soát sau 5 năm và thời hạn không quá 10 năm cho việc áp dụng các ngoại lệ đó. Yêu cầu về tính minh bạch bao gồm việc công khai về tất cả các luật và các quy tắc có liên quan. Hiệp định đề cập tới điều khoản tạo thuận lợi tăng cường tham gia của các nước đang phát triển trong thương mại dịch vụ thế giới thông 9 qua việc đàm phán các cam kết cụ thể về tiếp cận công nghệ, cải thiện khả năng của các nước này trong việc tiếp cận các kênh phân phối và hệ thống thông tin và tự do hóa tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực và phương thức cung cấp lợi ích xuất khẩu. Các điều khoản của hiệp định này về sự hội nhập kinh tế tương tự như những điều khoản trong Điều XXIV của hiệp định GATT, đặt ra yêu cầu có “phạm vi thuộc về lĩnh vực chủ yếu” và “không quy định hoặc xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử” giữa các bên. Điều khoản về các quy định trong nước, các biện pháp không biên giới có tầm ảnh hưởng quan trọng đến thương mại dịch vụ, hiệp định đưa ra điều khoản chỉ ra rằng tất cả các biện pháp áp dụng chung này cần phải được quản lý một cách hợp lý, khách quan và bình đẳng. Hiệp định cũng quy định rằng các thành viên phải đưa ra các biện pháp nhanh chóng rà soát lại các quyết định hành chính liên quan đến việc cung ứng dịch vụ. Hiệp định quy định những nghĩa vụ liên quan đến công nhận (ví dụ, trình độ học vấn) nhằm mục đích đảm bảo cho việc phê duyệt, cấp phép hoặc chứng chỉ trong lĩnh vực dịch vụ. Hiệp định đánh giá cao việc công nhân đạt được thông qua tiêu chí hài hòa và đồng thuận quốc tế. Các điều khoản bổ sung quy định các bên phải đảm bảo rằng độc quyền và các nhà cung cấp dịch vụ độc quyền không lạm dụng vị trí độc quyền của họ. Những thông lệ kinh doanh mang tính hạn chế sẽ phải tùy thuộc vào sự tham vấn giữa các bên để xóa bỏ thông lệ này. Mặc dù thông thường các bên không được phép hạn chế việc chuyển tiền và thanh toán quốc tế cho những giao dịch vãng lai liên quan đến các cam kết của hiệp định, hiệp định có các điều khoản cho phép những hạn chế nhất định trong trường hợp cán cân thanh toán gặp khó khăn. Tuy nhiên, nếu được áp dụng, những hạn chế này sẽ phải tuân thủ một số điều kiện bao gồm không phân biệt đối xử, tránh những thiệt hại thương mại không cần thiết cho các thành viên khác và chỉ mang tính chất tạm thời. Hiệp định bao gồm những điều khoản ngoại lệ chung và ngoại lệ về an ninh tương tự như các Điều khoản XX và XXI của hiệp định GATT. Hiệp định cũng quy định về việc đàm phán nhằm mục đích phát triển các nguyên tắc đối với việc trợ cấp bóp méo thương mại trong lĩnh vực dịch vụ. 2.3.2. Nhóm nội dung thứ 2 bao gồm phần III, IV và V. Cụ thể là: Phần III bao gồm các điều khoản cam kết cụ thể về mở cửa thị trường và đối xử quốc gia, không phải là các nghĩa vụ chung mà là các cam kết trong các 10 danh mục cam kết quốc gia. Khi mở cửa thị trường, “mỗi thành viên phải dành cho dịch vụ hoặc người cung cấp dịch vụ của các thành viên khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự sự đối xử theo những điều kiện, điều khoản và hạn chế đã được thỏa thuận và quy định tại Danh mục cam kết cụ thể”. Mục đích của điều khoản mở cửa thị trường là để xóa bỏ dần dần các biện pháp như: hạn chế số lượng về các nhà cung cấp dịch vụ, về tổng giá trị giao dịch dịch vụ, về tổng số các hoạt động dịch vụ hay về tổng số lao động được tuyển dụng. Tương tự như vậy, những hạn chế đối với các hình thức pháp nhân hoặc liên doanh thông qua đó dịch vụ được cung cấp hoặc hạn chế về tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài bằng cách giới hạn tỷ lệ phần trăm tối đa cổ phần phải từng bước xóa bỏ. Điều khoản đối xử quốc gia quy định nghĩa vụ đối xử như nhau đối với các nhà cung cấp dịch vụ trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, hiệp định cho phép một nước dành cho các nhà cung cấp dịch vụ của các nước thành viên khác sự đối xử phân biệt mà các thành viên đó dành cho các nhà cung cấp dịch vụ nội địa của mình. Tuy nhiên trong trường hợp này, các điều khoản cạnh tranh không được sửa đổi theo hướng tạo thuận lợi hơn cho các nhà cung cấp dịch vụ nội địa. Phần IV của hiệp định đưa ra những cơ sở cho việc tự do hóa từng bước trong ngành dịch vụ thông qua các vòng đàm phán liên tục và triển khai các danh mục cam kết quốc gia. Phần này cũng cho phép các thành viên được rút lại hoặc sửa đổi các danh mục cam kết sau kỳ hạn 3 năm. Nếu các cam kết được sửa đổi hoặc rút lại, các thành viên liên quan phải tiến hành thương lượng để thống nhất về giải quyết bồi thường. Nếu không thể đi đến thống nhất, việc bối thường sẽ được quyết định bởi trọng tài. Phần V của hiệp định là những quy định về thể chế, gồm điều khoản về tham vấn và giải quyết tranh chấp cũng như thành lập Hội đồng Thương mại Dịch vụ. Nghĩa vụ của Hội đồng Thương mại Dịch vụ được quy định tại Quyết định Bộ trưởng. 2.3.3. Nhóm nội dung thứ 3 bao gồm các phụ lục về các trường hợp đặc biệt liên quan đến từng ngành dịch vụ cụ thể: Phụ lục đầu tiên của hiệp định liên quan đến việc di chuyển thể nhân. Phụ lục cho phép các thành viên đàm phán các cam kết cụ thể về việc di chuyển của các thể nhân cung cấp dịch vụ theo hiệp định này. Phụ lục quy định rằng thể nhân thuộc phạm vi điều chỉnh của một cam kết cụ thể sẽ được cung cấp dịch vụ phù hợp với các điều khoản của cam kết đó. Tuy nhiên hiệp định này sẽ không áp 11 dụng đối với các biện pháp tác động đến việc làm, quốc tịch, cư trú hoặc việc làm trên cơ sở thường xuyên. Phụ lục về các dịch vụ tài chính (chủ yếu là ngành ngân hàng và bảo hiểm), dù có các điều khoản khác trong Hiệp định, phụ lục này cho phép áp dụng những biện pháp thận trọng, bao gồm việc bảo vệ cho các nhà đầu tư, người gửi tiền, người nắm giữ hợp đồng bảo hiểm và để đảm bảo cho sự thống nhất và ổn định của hệ thốn