Như vậy với những ưu thế nổi vốn có của mình thì Trung Quốc đã có một nền
văn minh vô cùng rực rỡ về nhiều mặt, trong đó nổit bật như chữ viết, văn học, sử
học , khoa học –tự nhiên Đặc biệt Trung Quốc rất coi trọng việc giáo dục con
người thể hiện trong việc mở các trường học và tổ chức các khoa cử trong các triều
đại trước.
Với một đất nước có bề dày về mặt lịch sử, bề rộng về mặt địa lý, ngay từ thời
cổ đại Trung Quốc đã có những phát minh lớn có tiếng vang và ảnh hưởng đến cả
thế giới, trong đó tiêu biểu nhất là giấy, la bàn,thuốc nổ Việc phát minh ra giấy là
một cuộc cách mạng trong truyền bá chữ viết, trao đổi tư tưởng và phổ biến kiến thức
Những phát minh đó cho thấy con người Trung Quốc rất năng động, sáng
tạo.Hơn nữa, suốt 5000 năm tồn tại và phát triển, văn minh Trung Quốc không chỉ có
ảnh hưởng đến các dân tộc châu Á,mà còn có những đóng góp lớn cho tiến trình phát
triển của văn minh loài người.Những phát minh lớn của Trung Quốc trong lịch sử
khoa học -kĩ thuật của thế giới.những phát minh đó đã làm thay đổi bộ mặt thế
giới,loại thứ nhất trên bình diện văn học , loại thứ hai trên bình diện chiến tranh, loại
thứ ba trên bình diện hàng hải
Từ một nước nghèo nàn ,lạc hậu thì Trung Quốc đã phấn đấu đi lên thành một
nước có chỉ số phát triển đầu người cao nhất thế giới. Chính trị từ khủng hoảng đến
ổn định.
Những đóng góp của văn minh Trung Quốc cho nhân loại là rất lớn,chúng ta
không thể phủ nhận nó.Thực tế đã cho thấy điều đó.
21 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 24031 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những thành tựu của nền văn minh Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lịch sử văn minh thế giới
Nhóm Glory 1
Tiểu luận
NHỮNG THÀNH TỰU CỦA NỀN
VĂN MINH TRUNG QUỐC.
Lịch sử văn minh thế giới
Nhóm Glory 2
LỜI MỞ ĐẦU
Như vậy với những ưu thế nổi vốn có của mình thì Trung Quốc đã có một nền
văn minh vô cùng rực rỡ về nhiều mặt, trong đó nổit bật như chữ viết, văn học, sử
học , khoa học –tự nhiên…Đặc biệt Trung Quốc rất coi trọng việc giáo dục con
người thể hiện trong việc mở các trường học và tổ chức các khoa cử trong các triều
đại trước.
Với một đất nước có bề dày về mặt lịch sử, bề rộng về mặt địa lý, ngay từ thời
cổ đại Trung Quốc đã có những phát minh lớn có tiếng vang và ảnh hưởng đến cả
thế giới, trong đó tiêu biểu nhất là giấy, la bàn,thuốc nổ…Việc phát minh ra giấy là
một cuộc cách mạng trong truyền bá chữ viết, trao đổi tư tưởng và phổ biến kiến thức
Những phát minh đó cho thấy con người Trung Quốc rất năng động, sáng
tạo.Hơn nữa, suốt 5000 năm tồn tại và phát triển, văn minh Trung Quốc không chỉ có
ảnh hưởng đến các dân tộc châu Á,mà còn có những đóng góp lớn cho tiến trình phát
triển của văn minh loài người.Những phát minh lớn của Trung Quốc trong lịch sử
khoa học -kĩ thuật của thế giới.những phát minh đó đã làm thay đổi bộ mặt thế
giới,loại thứ nhất trên bình diện văn học , loại thứ hai trên bình diện chiến tranh, loại
thứ ba trên bình diện hàng hải…
Từ một nước nghèo nàn ,lạc hậu thì Trung Quốc đã phấn đấu đi lên thành một
nước có chỉ số phát triển đầu người cao nhất thế giới. Chính trị từ khủng hoảng đến
ổn định.
Những đóng góp của văn minh Trung Quốc cho nhân loại là rất lớn,chúng ta
không thể phủ nhận nó.Thực tế đã cho thấy điều đó.
Ảnh của nền văn minh Trung Quốc là rất lớn,trong đó không thể ngoại trừ Việt
Nam.Việt Nam cần học tập con người Trung Quốc về sự nhạy bén với thời cuộc,sáng
tạo hơn nữa trong các lĩnh vực.
Với những thành tựu đó,ngừơi Trung Quốc hoàn toàn có thể ngẩng cao đầu
trên trường quốc tế,ngừơi Trung Quốc có thể tự hào về con ngừơi và đất nước
mình.Trung Quốc xứng đáng để cả thế giới ngưỡng mộ và học tập.
Lịch sử văn minh thế giới
Nhóm Glory 3
Thư pháp
NHỮNG THÀNH TỰU CỦA NỀN VĂN MINH TRUNG QUỐC.
1/Chữ viết
Cũng giống như các quốc gia khác, ban đầu phương tiện giao tiếp chủ yếu để
biểu đạt tình cảm, truyền đạt tin tức, trao đổi kiến thức và kinh nghiệm của người
Trung Quốc cổ xưa là cách truyền miệng vào các thời trước thời Hoàng Đế.
Đến thời Hoàng Đế người ta đã kết dây thừng (thắt dây), tức là dùng dây thắt
nút để ghi nhớ điều gì đó. Việc lớn thì thắt nút lớn,
việc nhỏ thì thắt nút nhỏ. Đây là một phương pháp sơ
khai để ghi nhớ sự việc mà không chỉ người Trung
Quốc biết làm.
Khoảng thiên nhiên kỉ II tr.cn, người Ân
Thương đã có chữ viết, đó là văn tự giáp cốt.Giáp là
mai rùa, cốt là xương thú, giáp cốt văn tự là khắc trên
mai rùa hoặc xương thú. Giáp cốt văn có niên đại sớm
nhất tìm được là thuộc triều Võ Đinh ( khoảng 1324 –
1266 tr.cn ); tài liệu này còn có tên là giáp cốt văn Ân
Khư vì đào được ở Ân Khư. Chữ trên giáp cốt là loại
chữ tượng hình nhưng dần do yêu cầu ghi chép các
động tác và các khái niệm trừu tượng, trên cơ sỡ chữ
tượng hình đã phát triển thành hai loại chữ biểu ý (
thể hiện ý ) và hài thanh ( mượn âm thanh). Tổng số
chữ viết trên văn tự giáp cốt có tới 5000 chữ; có
những đoạn văn dài đến hơn 100 chữ.
Đến thời Tây Chu số lượng chữ càng nhiều và cách viết càng đơn giản. Chữ
viết tiêu biểu thời kì này là kim văn, cũng gọi là chung đỉnh văn ( chữ viết trên
chuông đỉnh ).
Các chữ viết đầu tiên này được gọi chung là chữ đại triện, cũng gọi là cổ văn.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc do đất nước không thống nhất nên chữ viết cũng không
thống nhất.
Đến thời Tần, Lý Tư đã dựa vào chữ nước Tần kết hợp với các thứ chữ của các
nước khác, cải tiến cách viết tạo thành một loại chữ thống nhất được gọi là chữ tiểu
triện.
Từ cuối thời Tần Thủy Hoàng ( 221 – 206 TCN ) đến thời Hán
Tuyên đế (73 -49 TCN ), lại xuất hiện một kiểu chữ mới gọi là chữ lệ.
Chữ lệ khác chữ triện ở chỗ chữ triện còn giữ lại nhiều yếu tố tượng
hình, do đó có nhiều nét cong nét tròn, còn chữ lệ thì biến những nét
đó thành ngang bằng sổ thẳng vuông vức ngay ngắn. Thời gian sử
dụng chữ lệ tuy không lâu nhưng chữ lệ có ý nghĩa rất quan trọng vì
đó là giai đoạn quá độ để phát triển thành chữ chân tức là chữ Hán
ngày nay.
Chữ giáp cốt
Lịch sử văn minh thế giới
Nhóm Glory 4
Chữ Hán đã nhiều lần cải tiến từ chữ tượng hình thành chữ phù hiệu làm nó
thoát li đồ họa thành văn tự, từ nét không đều hoặc cong queo thành nét đều tròn, từ
hình chữ không có định thành cố định, từ kết cấu phức tạp thành đơn giản. Không chỉ
dừng lại ở đó, do xuất phát từ yêu cầu tìm tòi nghệ thuật mà chữ hán đã trở thành một
mĩ thuật biểu cảm dân tộc, thể hiện tâm tư và nguyện vọng của con người, có tác
dụng thẩm mỉ và giá trị mĩ học cao.Thư pháp Trung Quốc thật sự thu hút sự chú ý
của loài người. Chữ Trung Quốc đã có lúc trở thành “ Quốc gia văn tự” đối với các
nước Đông Á và Việt Nam.
Ra đời từ thiên nhiên kỉ thứ II tr CN, chữ viết Trung Quốc là hệ chữ duy nhất
hiện còn được sử dụng và ngày càng đổi mới để đáp ứng nhu cầu cuộc sống ngày
nay.
2.Văn học
Văn học là lĩnh vực phát triển từ rất sớm ở Trung Quốc,Trung Quốc có một
nền văn học rất phong phú. Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc , văn học Trung Quốc đã
bắt đầu phát triển. Đến thời Tây Hán tư tưởng Nho gia được đề cao. Đến thời Tùy
Đường chế độ khoa cử bắt đầu ra đời, trong đó văn chương trở thành thước đo chủ
yếu của tài năng; do đó văn học Trung Quốc càng có nhiều thành tựu lớn lao. Văn
học Trung Quốc thời kì này có nhiều thể loại như thơ ,từ, phú, kịch, tiểu
thuyết,….trong đó tiêu biểu nhất là kinh thi thơ Đường và tiểu thuyết Minh Thanh.
a/ Kinh thi
Kinh thi là tập thơ cổ nhất của Trung Quốc do nhiều tác giả sáng tác từ những
năm đầu Tây Chu đến giữa Xuân Thu ( khoảng 500). Với 305 bài Kinh thi chia làm
ba phần : Phong, Nhã, Tụng.
- Phong là dân ca các nước ( gồm 15 nước) nên gọi là Quốc Phong
- Nhã là âm nhạc vùng vương triều nhà Chu trực tiếp thống trị gồm đại Nhã( phản
ánh sinh hoạt của quý tộc), Tiểu Nhã ( phản ánh sinh hoạt của các tiểu quý tộc.
- Tụng là loại thơ ca tán tụng công đức của các ông vua thường dùng trong tế tự ở
trong miếu như Thượng Tụng, Chu Tụng ,Lỗ Tụng.
Quốc Phong chiếm một nữa số bài trong Kinh thi, cũng là phần có giá trị nhất vì
nội dung của nó mang đậm tính nhân văn và tính hiện thực sâu sắc. Kinh Thi chủ
yếu tứ ngôn, phần lớn mang hình thức “ trùng chương điệp cú”, ngôn ngữ chất phát,
cách điệu mới mẻ, mà hậu thế khái quát thủ pháp biểu hiện trong Kinh thi thành,
Phú, Tỷ, Hứng. Kinh thi đã ảnh hưởng rất sâu sắc đến văn học Trung Quốc sau này.
b/ Thơ Đường
Thơ Đường là đỉnh cao của nền thư ca Trung Quốc. Hàng ngàn năm đã trôi
qua nhưng đến nay những bài thơ Dường vẫn làm say mê long người bởi những nội
dung và giá trị tuyệt vời của chúng . Trong núi thơ thời Đường ngày ấy, nay người ta
còn giữ lại được khoảng 48000 bài thơ của trên 2300 tác giả, tiêu biểu nhất là Lý
Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.
Lịch sử văn minh thế giới
Nhóm Glory 5
Lý Bạch (701-762) tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê Miên Châu (Tứ
Xuyên), 12 tuổi đã làm thơ, học rộng, biết nhiều lại giỏi về kiếm thuật. Ông từng
được Đường Huyền Tông trọng dụng, làm Hàn lâm cung phụng, nhưng chán cảnh
luồn cúi, ưa phóng khoáng nên đã từ quan bỏ đi chu du khắp nơi. Lý Bạch là nhà thơ
lãng mạn vĩ đại sau Khuất Nguyên. Thơ ông tập trung miêu tả vẻ đẹp của thiên
nhiên, thắm đượm tình yêu đất nước, yêu nhân dân sâu sắc, đồng thời cũng thể hiện
tính cao ngạo, coi thường quyền quý, lớn tiếng đã kích các thế lực phong kiến đen
tối,….Nhưng bên cạnh những áng thơ kinh điển, ông cũng có những bài thơ “ đắm
mình “ trong rượi và thoát tục du tiên. Dặc điểm nghệ thuật : thơ Lý Bạch đẹp, hào
hùng, bút thế linh hoạt. Ông đã lại trên 1200 bài thơ, tiêu biểu nhất là bài : hàn lộ
nan, xa ngắm thác núi lư, mộng du thiên mu ngâm lưu biệt,….
Đỗ Phủ (712-770) tự Tử Mỹ, hiệu Thiếu Lăng Dã Lão, tổ tiên người Tương
Dương ( Hồ Bắc). Ông sinh ra ở huyện Cũng( Hà Nam) trong một gia đình quan lại
nhỏ sa sút. Ông đi thi nhiều lần nhưng không đỗ, 40 tuổi mới làm chức quan nhỏ
trong 7 năm. Ông sống trong thời đại mà xã hội thời Đường đi từ thịnh đến suy. Thơ
Đỗ Phủ phản ánh chân thực các mặt đời sống trước và sau loạn An Sử, chan chứa
lòng yêu thương tổ quốc và tình cảm nồng hậu với nhân dân. Đỗ Phủ là nhà thơ hiện
thực vĩ đại trong lịch sữ văn học Trung Quốc. Bên cạnh nội dung tư tưởng sâu sắc, là
nghệ thuật biểu hiện siêu phàm, ảnh hưởng rất lớn nđến sự phát triển thơ ca sau này.
Trong số 1400 bài thơ truyền đời của ông, tiêu biểu nhất là các tác phẩm : Phó
Phụng Tiên huyện Vinh Hoài, NGũ bách tự, Bắc chinh, Thạch Hào lại (Viên lại ở
Thạch Hào)…
Lý Bạch và Đỗ Phủ được ví như hai ngôi sao sáng chói trên thi đàn cổ điển
Trung Quốc.
Bạch Cư Dị (772-846) tự Lạc Thiên, quê Hạ Khuê (Thiểm Tây), xuất thân
trong một gia đình quan lại, đậu tiến sĩ làm quan to trong triều, sau bị giáng chức
xuống làm Tư Mã Giang Châu. Ông là người đề xướng dùng thể tân nhạc để viết
những đề tài mới về thời sự. Bạch Cư Dị chủ trương thơ ca phải phản ánh nổi thống
khổ của nhân dân, đồng thời vạch trần cuộc sống hoang dâm và nền chính tị lừa bịp
của giai cấp thống tri…Số lượng thơ ông khá nhiều: 2800 bài, tiêu biểu là các bài
Mại tháng ông, Khinh phì , Thượng Dương bạch phát nhân. Đỉnh cao của thơ Bạch
Cư Dị là hai bài Trường hận ca và Tùy bà hành.
c/ Tiểu thuyết thời Minh,Thanh.
Thời Minh, Thanh đả ra đời một loạt những tiểu thuyết tiếng tăm bất hủ. Dựa
vào các câu chuyện lưu truyền trong dân gian, các nhà văn đã viết thành tiểu thuyết
chương hồi phong phú về nội dung và hình thức.
Thời Minh tiêu biểu nhất là bộ Tam quốc chí diễn nghĩa, Thủy Hử và Tây du
kí. Bộ ba tiểu thuyết này trở thành di sản quý báu trong nền văn học Trung Quốc và
trong kho tàng văn học thế giới.
Tam quốc chí diễn nghĩa do La Quán Trung tiếp thu từ truyền thuyết dân
gian,rồi căn cứ vào sự thật lịch sử, gia công chỉnh lý mà viết thành sách. Mặc dù có
hư cấu nhưng cốt truyện phù hợp với sự thật lịch sử và hợp tình hợp lý, đậm đà tính
Lịch sử văn minh thế giới
Nhóm Glory 6
nghệ thuật chân thực. Sách kể lại lịch sử từ năm 184 đến 280 sau CN, khắc họa cuộc
đấu tranh giữa 3 nước Ngụy, Thục, Ngô, phơi bày xã hội đen tối mục nát và nổi
thống khổ của nhân dân thời loạn lạc.
Thủy hử là bộ trường thiên tiểu thuyết được Thi Nại
Am căn cứ vào sử liêu Bắc Tống cùng với những tình tiết
sinh động của các thoại bản và tạp kịch kể về 108 người
trong nhóm Tống Gian đầu đời nguyên mà viết thành
truyện. Thủy hử kể lại cuộc khởi nghĩa của nông dân ở
Lương Sơn Bạc dưới sự lãnh đạo của Tống Gian. Tư tưởng
cơ bản trong tác phẩm là tư tưởng “ trung nghĩa” phong
kiến… Thành công lớn nhât là tác giả đã sáng tạo ra được
nhiều hình tượng anh hùng nông dân tiêu biểu như Tống
Gian, Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm… sống mãi trong lòng nhân
dân Trung quốc.
Tây du kí do Ngô Thừa Ân sáng tác, miêu tả 81 hồi gian truân mà thầy trò
Đường Tăng đã trải qua và chiến thắng. Toàn bộ tác phẩm bậc lên tinh thần lãng
mạn, tính châm biếm hài hước và tính chất chống phong kiến.
Từ đầu nhà Thanh đến những năm cuối đời vua Càn Long là thời kì tiểu thuyết
cực thịnh. Tiêu biểu có các tác phẩm Liêu trai chí dị, Thủy Hử hậu truyện, Tỉnh thế
nhân duyên truyện, Nho lâm ngoại sử, Hồng lâu mộng.
Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh (1640-1715) là tập đoãn thiên tiểu thuyết có
490 truyện chia làm 4 loại…Tác giả đã mượn chuyện Hồ Ly Ma Quái để chỉ không
khí hiện thực hắc ám đương thời, bày tỏ tình nhân thế thái. Tác phẩm này đạt đỉnh
cao của đoản thiên tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc
Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử (1705-1754) là bộ tiểu thuyết châm biếm
nhằm đã kích nền luân lý phong kiến thời cổ và chế độ khoa cử thời đó
Hồng lâu mộng do Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc sáng tác đã miêu tả cảnh
hưng suy của một gia đình phong kiến và chuyên tình của đôi nam nữ Giả Bảo Ngọc-
Lâm Đại Ngọc. Tác phẩm khắc họa rõ nết bộ mặt phong kiến Trung Quốc mạc kì,
phê phán chế độ thi cử, quan trường và lễ giáo phong kiến, nêu khác vọng tự do…Nó
có tác dụng chống lại ý thức hệ phong kiến. Hồng lâu mộng là tiểu thuyết có giá trị,
xứng đáng là một kiệt tác của nhân loại.
3/ Sử học
Một trong những đặt điểm của văn hóa cổ đại Trung Quốc là sử học rất phát
triển. Đây là một lĩnh vực đạt nhiều thành tựu to lớn. Dân tộc Trung Quốc có ý thức
cao về lịch sử và rất giàu kinh nghiệm trong biên soạn lịch sử. Chế độ sử quan chưa
hề gián đoạn, ghi chép lịch sử liên tục, phong phú về hình thức, đa dạng về thể loại.
Từ thời Tây Hán, sử học mới trở thành một lĩnh vực độc lập và ngày càng phát triển.
Thủy Hử
Lịch sử văn minh thế giới
Nhóm Glory 7
Người đặt nền móng cho sử học Trung Quốc là Tư Mã Thiên. Sau đây xin điểm qua
một số tác phẩm tiêu biểu nhất.
Sử ký của Mã Tư Thiên là bộ thông sử theo kiểu bất khoa toàn thư trải suốt
3000 năm lịch sử từ thời Hoàng Đế đến Hán Vũ Đế, gồm 5265000 nghìn chữ chia
làm 13 chương với 5 thể loại phối hợp và bổ sung cho nhau ( 12 bản kỉ, 10 biểu, 8
thư, 30 thế gia, 70 liệt truyện). Sử ký đề cập đến các mặt chính trị, kinh tế, quân sự,
chế độ điển chương, học thuật, văn hóa, y dược, bói toán, hoạt động của mọi nhân
vật thuộc mọi tầng lớp xã hội, thiên văn, địa lí, công trình đê điều, quan hệ giữa các
dân tộc, quan hệ giao lưu với các nước ngoài…, đồng thời phê phán thuyết thiên
phân hợp nhất, âm dương ngũ hành, đề xướng nhân nghĩa, chống bạo lực, ghét chiến
tranh, coi trọng hoạt động sản xuất…, Tư Mã Thiên là người đầu tiên trong các sử
gia trên thế giới ghi chép lịch sử bằng thể ký. Sử ký đã để lại cho đời sau những tư
liệu lịch sử hết sức có giá trị, đồng thời cũng là một kiệt tác văn học được Lỗ Tấn ca
ngợi là: “ lời hát tuyệt vời của các sử gia, thiên Li Tao không vần”. Sử ký của Tư Mã
Thiên được xếp vào hàng những tác phẩm đồ sộ của nhân loại.
Kế thừa thể lệ của sử thi, Ban Cố thời Đông Hán ( 32-92 s. CN) đã biên soạn
sách Hán thư, mở đầu cho cách viết sử chia theo thời đại. Hán thư gồm 12 bản kỉ, 8
biểu, 10 chí, 70 liệt truyện ghi chép những sự kiện xảy ra từ những năm đầu Hán Cao
Tổ( 260 TCN) đến năm thứ tư – Vương Mãng (năm 23 s. CN) theo thể loại truyện
ký. 10 chí của Hán thư so với 8 thư của sử ký thì hoàn hảo và sáng tạo hơn…, nhưng
do nhãn quan chính trị của Ban Cố nên Hán thư trỏ thành một tác phẩm sử học chính
thống ủng hộ nền thống trị phong kiến, phê phán tư tưởng chống đối của Tư Mã
Thiên.
Từ đời Hán đến Nam Bắc Triều,ngoài Hán thư còn có Tam quốc chí của Trần
Thọ, hậu Hán thư của Phạm Diệp. Sau đó, Tùy Văn Đế,Đường Thái Tông,lập cơ
quan biên soạn lịch sử của nhà nước gọi là “ Sử quán” do tể tướng và đại thần phụ
trách .Các chức sử quan được lập chuyên lo việc soạn thảo lịch sử. Từ đó, nhiều bộ
sử như: Tấn thư, Lương thư,Trần thư, Bắc Tề thư, Chu thư, Tùy thư, Nam sử, Bắc
sử… ra đời. Sau này, còn quy định về quyền soạn chính sử, theo đó chỉ nhà vua mới
có quyền cử người soạn chính sử, tể tướng giám định, tư nhân không được viết sử
như trước nữa. Trong 15 bộ chính sử được biên soạn có Tùy thư, Tân Đường thư,
Kim sử được đánh giá cao…
Nhưng bộ sử có ảnh hưởng đời sau nhất là bộ Tư trị thông giám của Tư mã
Quang.
Lịch sử văn minh thế giới
Nhóm Glory 8
Tư Mã Quang ( 1019-1086) đã để ra 19 năm trời để soạn bộ thông sử theo thể
biên niên, khác với cách biên niên sử từng thời trước đó. Thực ra đây là một công
trình tập thể của Tư Mã Quang, Lưu Thư, Lưu Du và Phạm Tổ Ngu. Các tác giả đã
tham khảo nhiều loại tài liệu và ý kiến của 310 nhà viết tạp sử… Tư mã Quang là
người viết bản thảo cuối cùng. Bộ sách ghi từ thời chiến quốc ( 403 TCN) đến Ngũ
đại(959), tổng cộng là 354 cuốn ( kể cả 30 cuốn mục lục).
Thông giám ghi sự kiện lịch sử theo thứ tự thời gian với thư pháp truy
thuật(thuật lại) và chung ngôn (lời sau) để nói rõ nguyên nhân hậu quả của các sự
kiện. Cách ghi này dễ gây ấn tượng và có hệ thống rõ ràng. Đặc biệt Thông giám có
thái độ phê phán mê tín, tôn giáo…đây là tiến bộ quan trọng của tư tưởng sử học
Trung Quốc.
Tư trị thông giám có ảnh hưởng lớn, thúc đẩy việc viết sử theo kiểu biên niên.
Sau này, xuất hiện nhiều tác phẩm cùng loại như Tư trị thông giám Cương mục của
Chu Hy ( Nam Tống). Hồ Tam Tĩnh ( giữa Tống – Nguyên) chú giải Thông giám,
còn Vương Phu Chi ( giữa Minh – Thanh) bàn về Thông giám…Đã dẫn đến hình
thành cả một hệ thống “ Thông giám học” .
Thời Minh – Thanh các bộ sử lớn được biên soạn như Minh sử, Thanh thực
lục, Đại Thanh nhất thống trí, Tứ khố toàn thư…các bộ sách trên đều là nhưng di sản
văn hóa vô giá của nhân dân Trung Quốc
4.Nghệ thuật
Nghệ thuật Trung Quốc có một lịch sử lâu đời với phong cách dân tộc đậm đà
và đạt được những thành tựu huy hoàng.
a/ Kiến trúc
Trung Quốc còn là một nước có nền kiến trúc phát triển rực rỡ với nhiều công
trình kiến trúc độc đáo có tầm cỡ quốc tế.Có thể chia lịch sử Trung Quốc thành các
giai đoạn như:
Giai đoạn 1 (từ 475 TCN- 221 TCN )
là cao trào kiến trúc lần thứ nhất; công
trình tiêu biểu là thành Trường An và Vạn
Lý Tường Thành;
Giai đoạn 2 ( từ năm 221 TCN đến năm 907) trong đó thời Tuỳ là đỉnh cao
mới của nên kiến trúc Trung Quốc. Ở giai đoạn này, các quy luật kiến trúc đã hình
THÀNH TRƯỜNG AN
Lịch sử văn minh thế giới
Nhóm Glory 9
thành và ổn định, công trình tiêu biểu là chùa Phật Quang ở Ngũ Đài Sơn, Tháp
chùa Giang Thiên trên ngọn Kim Sơn, các thành phố như Lạc Dương, Thành Đô…;
Giai đoạn 3 (từ năm 907 đến 1368), đặc trưng của
giai đoạn này là hình thứ khéo léo tinh vi, nhà cửa, chùa
chiên, vườn tược đều được chú ý trang trí cẩn thận, xây
dựng công phu, công trình tiêu biểu là điện Mâu Ni ( Hà
Bắc), các tháp Xá Lợi, Tây Hạ ( Nam Kinh ), tháp chùa
Thiên Minh ( Bắc Kinh ), tháp Giang Thiên (Giang Tô );
giai đoạn 4 ( từ 1368 đến 1849 ) là giai đoạn kiến trúc
Đương - Tống được nâng lên một mức cao hơn, công
trình tiêu biểu là quần thể kiến trúc nổi tiếng Cố Cung,
Viên Minh viên.
Kiến trúc cổ đại Trung Quốc có đặc điểm là thường dùng vật liệu kết cấu bằng
gỗ, bố trí thành quần thể kiến trúc, ở giữa là sân, bốn phía là nhà vây lại, lấy gian nhà
làm đơn vị cơ bản. Cung điện, đền chùa, miếu mạo đều xây dựng theo một dạng như
vậy, chỉ khác về quy mô, kiểu dáng mà thôi. Gia công nghệ thuật ngay trên cấu kiện
của kiến trúc như tạo dáng hình cong với những phù điêu các con vật quý, tạo cho bộ
mặt kiến trúc Trung quốc một vẻ độc đáo. Sự bố trí các màu tong một bố cục tương
phản tôn tạo lẫn nhau, sự phản ánh đời sống tam linh của người Trung Quốc như:
lòng tin vào thánh thần, tôn thờ trời đất, thuyết Âm dương ngũ hành… đã ảnh hưởng
đến hình thức và nội dung các công trình kiến trúc cổ xưa, tạo nên đặc điểm trong
kiến trúc Trung Quốc.
Những công trình kiến trúc nổi tiếng :
CỐ CUNG
Thành Lạc Dương cổ Thành Đô Trung Quốc
Lịch sử văn minh thế giới
Nhóm Glory 10
- Vạn Lý trường thành là công tình
phòng ngự nổi tiến của Trung Quốc
chống lại sự xâm lăng của các dân
tộc phương Bắc trong suốt 2500
năm. Trường thành dài 6700 km,
chạy qua địa phân 6 tỉnh miền Tây,
Tây Bắc và Đông Bắc Trung Quốc,
được xây tư năm 420 đến năm 221
TCN. Sau khi thống nhất Trung
Quốc, Tần Thuỷ Hoàng đã huy động
30 vạn người nối Trường thành của các nước Yên, Triệu, Tần và sửa sang lại.
Các triều đại kế tiếp, triieù nào cũng cho sửa sang lại. Đặc biệt là triều minh đã
cho tiến hành tu bổ, gia cố Trường thành trong 100 năm liên tục. Nguyên liệu
chủ yếu đẻ xây là gạch vồ, đá tảng. Trường thành gồm 4 bộ phận chủ yếu:
tường thành, cửa ải, đài thành, phong hoả đài… lại được xây trên địa hình
sống núi, có nơi cao tới 1000 mét. Công trình là kết quả của sức lao