Lịch sử triết học từ cổ đại đến nay là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật 
và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật đã trải qua con đường phát triển lâu dài 
và tùy thuộc vào lịch sử đời sống vật chất của xã hội (trước hết là cơ sở kinh tế), 
mối quan hệ của triết học với tư tưởng chính trị, pháp quyền, tôn giáo, trình độ
phát triển của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội . từng thời kỳ mà chủ nghĩa 
duy vật đã có nhiều hình thức tồn tại khác nhau 
1
. 
+ Hình thức đầu tiên của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật cổ đại. Đó 
là chủ nghĩa d uy vật chất phác, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích 
chúng, và do đó chưa có cơ sở khoa học để đứng vững trước sự tiến công 
của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo ngự trị trong thời trung cổ.
+ Hình thức thứ 2 của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật siêu hình thế
kỷ XVII – XVIII. Hình thức này ra đời trong hoàn cảnh giai cấp tư sản 
đang lên, họ xây dựng chủ nghĩa duy vật của mình nhằm chống lại thế giới 
quan duy tâm, tôn giáo của giai cấp phong kiến. Do hạn chế bởi trình độ
khoa học và lợi ích giai cấp cho nên nó mang tính chất siêu hình.
+ Hình thức thứ 3 của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Là 
chủ nghĩa duy vật được xây dựng trên cơ sở của k hoa học hiện đại và 
không ngừng phát triển do nhu cầu thực tiễn cùng sự phát triển của khoa 
học thời đại mới.
Trong phạm vi tiểu luận chúng ta sẽ nghiên cứu Những thành tựu và hạn chế
của Chủ nghĩa duy vật Tây Âu thời Cận đại (thuộc hình thức tồn tại thứ 2 của 
chủ nghĩa duy vật) để đánh giá một giai đoạn của chủ nghĩa duy vật trên con 
đường phát triển lâu dài của mình.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
24 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 8937 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa duy vật tây âu thời cận đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM 
 LỚP CAO HỌC ĐÊM 1 – K19 
  
 TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC 
ĐỀ TÀI 
 NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ 
 CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT TÂY ÂU 
 THỜI CẬN ĐẠI 
 Giảng viên hướng dẫn : TS Bùi Văn Mưa 
 Học viên : Ngô Kiên Định 
 Lớp : Cao học Đêm 1 – Khóa 19 
 TP.HCM, Tháng 03 Năm 2010 
 M Ụ C LỤ C 
Lời nói đầu ................................................................................................................................ 
 CHƯƠNG 1 
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN, CÁC ĐẶC ĐIỂM 
 CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI CẬN ĐẠI 
1.1. ĐIỀU KIỆN VỀ KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI ...............................................1 
1.2. ĐIỀU KIỆN VỀ KHOA HỌC KỸ THUẬT...............................................................1 
1.3. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC GIAI ĐOẠN NÀY...........1 
 CHƯƠNG 2 
 NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA CNDV TÂY ÂU THỜI 
 CẬN ĐẠI QUA CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC CỤ THỂ 
2.1. TRƯỜNG PHÁI DUY VẬT KINH NGHIỆM – DUY GIÁC.................................4 
 2.1.1. Phơrăngxít Bêcơn (Ph.Bêcơn, 1561-1626) .....................................................4 
 2.1.2. Tôma Hốpxơ (Thomas Hobbs, 1588 – 1679) ...............................................11 
 2.1.3. Giôn Lốcơ (John Locke, 1632 – 1704) ..........................................................14 
2.2. TRIẾT HỌC KHAI SÁNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT PHÁP VỚI ĐẠI 
 DIỆN TIÊU BIỂU LÀ ĐÊNÍT ĐIĐƠRÔ (1713-1784) ..........................................15 
 CHƯƠNG 3 
 VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT TÂY ÂU TRONG THỜI 
 CẬN ĐẠI VÀ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY 
3.1. VAI TRÒ CỦA CNDV TÂY ÂU TRONG THỜI CẬN ĐẠI ...............................19 
3.2. VAI TRÒ CỦA CNDV TÂY ÂU TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY..................19 
Lời kết luận ............................................................................................................................... 
Tài liệu tham khảo...................................................................................................................
 LỜI NÓI ĐẦU 
 Lịch sử triết học từ cổ đại đến nay là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật 
và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật đã trải qua con đường phát triển lâu dài 
và tùy thuộc vào lịch sử đời sống vật chất của xã hội (trước hết là cơ sở kinh tế), 
mối quan hệ của triết học với tư tưởng chính trị, pháp quyền, tôn giáo, trình độ 
phát triển của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội…. từng thời kỳ mà chủ nghĩa 
duy vật đã có nhiều hình thức tồn tại khác nhau 1. 
 + Hình thức đầu tiên của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật cổ đại. Đó 
 là chủ nghĩa duy vật chất phác, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích 
 chúng, và do đó chưa có cơ sở khoa học để đứng vững trước sự tiến công 
 của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo ngự trị trong thời trung cổ. 
 + Hình thức thứ 2 của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật siêu hình thế 
 kỷ XVII – XVIII. Hình thức này ra đời trong hoàn cảnh giai cấp tư sản 
 đang lên, họ xây dựng chủ nghĩa duy vật của mình nhằm chống lại thế giới 
 quan duy tâm, tôn giáo của giai cấp phong kiến. Do hạn chế bởi trình độ 
 khoa học và lợi ích giai cấp cho nên nó mang tính chất siêu hình. 
 + Hình thức thứ 3 của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Là 
 chủ nghĩa duy vật được xây dựng trên cơ s ở của khoa học hiện đại và 
 không ngừng phát triển do nhu cầu thực tiễn cùng sự phát triển của khoa 
 học thời đại mới. 
 Trong phạm vi tiểu luận chúng ta sẽ nghiên cứu Những thành tựu và hạn chế 
của Chủ nghĩa duy vật Tây Âu thời Cận đại (thuộc hình thức tồn tại thứ 2 của 
chủ nghĩa duy vật) để đánh giá một giai đoạn của chủ nghĩa duy vật trên con 
đường phát triển lâu dài của mình. 
1 Xem: TS Nguyễn Ngọc Thu - TS Bùi Văn Mưa (đồng chủ biên), Giáo trình Đại cương lịch sử triết học, 
Nxb Tổng Hợp Tp.HCM, Tp.HCM, 2003, tr. 5 - 15. 
 - 1 - 
 CHƯƠNG 1 
 ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN, CÁC ĐẶC 
 TRƯNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI CẬN ĐẠI 
1.1 ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI: 
 Khác với thời Phục hưng, thời Cận đại (thế kỷ XVII - XVIII) ở các nước Tây 
Âu là thời kỳ giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về chính trị trước giai cấp 
phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã nổ ra và thành công: cách mạng tư 
sản Hà Lan (cuối thế kỷ XVI), cách mạng tư sản Anh (1642 – 1648) và đặc biệt là 
cuộc cách mạng tư sản khá toàn diện và rất triệt để ở Pháp (1789 – 1794) đã xóa 
bỏ hoàn toàn chế độ Phong kiến, xác lập chế độ cộng hòa tư sản. Đây cũng là thời 
kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở thành phương thức 
sản xuất thống trị Tây Âu. 
1.2 ĐIỀU KIỆN KHOA HỌC KỸ THUẬT: 
 Những tiền đề trên đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kĩ thuật phát 
triển mà trước hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt được trình độ là cơ 
sở cổ điển. Khoa học tự nhiên thời kỳ này mang đặc trưng là khoa học tự nhiên - 
thực nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn tới “thói quen” nhìn nhận đối tượng nhận 
thức trong sự trừu tượng, tách rời, không vận động, không phát triển, nếu có đề cập 
đến vận động thì là sự vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên nhân chủ yếu làm 
cho triết học duy vật thời kỳ này mang nặng tính máy móc, siêu hình. Tuy nhiên 
việc khoa học đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, đặc biệt là khoa học tự nhiên đã tạo 
tiền đề cho sự xem xét thế giới một cách biện chứng. 
1.3 NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC THỜI KỲ NÀY: 
 Thứ nhất, trên bình diện thế giới quan, triết học thể hiện rõ thế giới quan duy 
vật máy móc bên cạnh quan điểm tự nhiên thần luận của giai cấp tư sản. Chủ 
nghĩa duy vật trở thành thế giới quan của giai cấp tư sản tiến bộ và cách mạng, 
khoa học đã trở thành sức mạnh của họ trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp 
Phong kiến và Nhà thờ. Mặc dù các thành tựu khoa học tự nhiên, đặc biệt là cơ học, 
được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn cuộc sống và trong nhận thức nhưng những 
niềm tin tôn giáo vẫn chưa bị đẩy lùi, những giá trị của Thượng đế được thừa nhận 
 - 2 - 
trước đây bây giờ được coi là những giá trị của Giới tự nhiên. Giới tự nhiên được 
gán ép cho những tính siêu nhiên, thần thánh. Do đó, màu sắc tự nhiên thần luận là 
một nét đặc sắc của chủ nghĩa duy vật máy móc lúc bấy giờ. 
 Thứ hai, trên bình diện nhận thức – phương pháp luận, triết học chủ yếu đi 
tìm phương pháp nhận thức m ới để khắc phục triệt để phương pháp kinh viện giáo 
điều, nhằm xây dựng một triết học và một khoa học mới có sự liên hệ mật thiết với 
nhau, hướng đến xây dựng tri thức. Tuy nhiên sự đối lập giữa cảm tính và lý tính 
rất gay gắt kéo theo sự đối lập giữa phương pháp quy nạp và phương pháp diễn 
dịch, giữa tư duy tổng hợp và tư duy phân tích đã sản sinh ra sự đối lập của chủ 
nghĩa kinh nghiệm – duy giác và chủ nghĩa duy lý – tự biện. Sự đối lập này đã sản 
sinh ra hai phương pháp tư duy siêu hình trong nhận thức khoa học: phương pháp 
kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học tự nhiên thực nghiệm và phương pháp tư 
duy tư biện trong nghiên cứu khoa học tự nhiên lý thuyết. Do khoa học thực 
nghiệm chiếm ưu thế nên phương pháp siêu hình kinh nghiệm được đề cao và do 
cơ học vươn lên vai trò hàng đầu trong các ngành khoa học tự nhiên nên chủ nghĩa 
cơ giới (máy móc) xuất hiện và xâm nhập trở lại vào các ngành khoa học đó. Vì 
vậy, trào lưu triết học thống trị trong giai đoạn này là chủ nghĩa duy vật siêu hình – 
máy móc. Tuy nhiên sau đó chủ nghĩa duy vật siêu hình – máy móc lại bộc lộ 
những nhược điểm yếu kém của mình trong quá trình tư duy lý luận vì vậy phép 
biện chứng duy tâm đã ra đời thay thế. 
 Thứ ba, trên bình diện nhân sinh quan – ý thức hệ, nền triết học thời kỳ này 
thể hiện rõ tinh thần khai sáng và chủ nghĩa nhân đạo tư sản. Nó là ngọn cờ lý 
luận của giai cấp tư sản để tập hợp, giác ngộ, hướng dẫn quần chúng thực hiện 
những hành động cách mạng nhằm cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới – chủ 
nghĩa tư bản. Khát vọng giải phóng con người ra khỏi sự thống trị của chế độ 
Phong kiến – giáo hội Nhà thờ, ra khỏi sự ngu dốt, ra khỏi chi phối âm thầm của 
các lực lượng tự nhiên nhằm hướng đến một cuộc sống tự do, hạnh phúc, công 
bằng, bác ái, sung túc cho con người trên trần gian được đặt ra. Khát vọng này có 
sức cuốn hút mạnh mẽ quần chúng đi đến một hành động cách mạng cụ thể để giải 
phóng mình và giải phóng xã hội. 
 - 3 - 
 Cuối thời cận đại, khi tiếp tục dào sâu nhân sinh quan nhân đạo tư sản, khắc 
phục thế giới quan duy vật máy móc và phương pháp luận siêu hình của các 
trường phái triết học đầu thời cận đại đã xuất hiện Triết học cổ điển Đức - giai 
đoạn bản lề của triết học phương Tây nối thời kỳ cận đại và thời kỳ hiện đại.2 
2 Xem: TS Nguyễn Ngọc Thu - TS Bùi Văn Mưa (đồng chủ biên), Giáo trình Đại cương lịch sử triết học, 
Nxb Tổng Hợp Tp.HCM, Tp.HCM, 2003, tr. 100 – 102. 
 - 4 - 
 CHƯƠNG 2 
 NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA CNDV TÂY ÂU THỜI 
 CẬN ĐẠI QUA CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC CỤ THỂ 
2.1 TRƯỜNG PHÁI DUY VẬT KINH NGHIỆM – DUY GIÁC: 
 Là trường phái triết học Anh do Ph.Bêcơn đặt nền móng, T.Hốpxơ phát triển 
theo khuynh hướng kinh nghiệm và Gi.Lốcơ đẩy mạnh theo khuynh hướng duy giác. 
 2.1.1 Phơrăngxít Bêcơn (Ph.Bêcơn, 1561-1626) 
 Ph.Bêcơn là nhà triết học vĩ đại thời cận đại, là người sáng lập ra chủ nghĩa 
duy vật kinh nghiệm Anh và khoa học thực nghiệm. Người có công lao to lớn 
chống lại chủ nghĩa kinh viện, khôi phục và phát triển truyền thống duy vật cổ đại 
trong thời kỳ mới. 
 Ph.Bêcơn đã coi chủ nghĩa kinh viện là vô ích, chỉ là những lập luận trừu 
tượng, không có nội dung. Khoa học mới (phương pháp luận của khoa học tự 
nhiên thực nghiệm) sẽ đem lại cho con người sức mạnh trong cuộc chinh phục giới 
tự nhiên. Để đạt được điều đó, nhận thức khoa học phải dựa trên các sự kiện và từ 
đó khái quát thành lý luận. Phương pháp quy nạp dựa trên quan sát, phân tích, so 
sánh, thực nghiệm là phương pháp chủ yếu để nhận thức chân lý. Song, để có được 
phương pháp trước hết phải loại bỏ những “ảo tưởng” cản trở con đường nhận thức 
như: ảo tưởng loài, ảo tưởng hang động, ảo tưởng thị trường, ảo tưởng nhà hát. 
 Ph.Bêcơn đã đưa ra những quan điểm duy vật, coi vật chất là tổng hợp cát hạt, 
coi giới tự nhiên là tổng hợp các vật thể đa dạng về chất. Vận động cũng đa dạng 
và là thuộc tính không thể tách rời của vật chất… Những tư tưởng của Ph.Bêcơn 
có ý nghĩa lớn, chống lại chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. 
 Song chủ nghĩa duy vật của Ph.Bêcơn là siêu hình và không triệt để. Ông quá 
nhấn mạnh đến phương pháp quy nạp, đề cao phân tích. Tuy chống lại chủ nghĩa 
kinh viện nhưng lại thừa nhận sự tồn tại của Thượng đế, thừa nhận lý luận về 
“chân lý hai mặt”… 
Những tư tưởng chủ yếu của hệ thống triết học của Ph.Bêcơn 
 a) Quan điểm thực tiễn: 
 - 5 - 
 Sống trong thời kỳ đêm trước của cuộc cách mạng tư sản Anh, Ph.Bêcơn đã 
nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học và triết học và sự cần thiết phải 
đẩy mạnh sự phát triển của chúng như một nền tảng lý luận của công cuộc phát 
triển kinh tế của đất nước. Ông coi đó là một phương tiện cơ bản nhằm xoá bỏ 
những bất công xã hội, xây dựng cuộc sống phồn vinh. Khác với những nhà nhân 
đạo cộng sản không tưởng, Ph.Bêcơn khẳng định phải cải tạo chính xã hội hiện 
thực đương thời trên cơ sở phát triển khoa học và triết học chứ không phải bằng 
cách tạo ra mô hình lý tưởng. Ông cho rằng, mục đích của xã hội là nhận thức các 
nguyên nhân và mọi sức mạnh bí ẩn của các sự vật và mở rộng sự thống trị của 
con người đối với giới tự nhiên trong chừng mực con người có thể làm được. 
 Ph.Bêcơn cho rằng nhiệm vụ của triết học là đại phục hồi các khoa học, 
nghĩa là phải cải tạo toàn bộ các tri thức mà con người đạt được thời đó. Đánh giá 
cao vai trò của tri thức lý luận trong việc cải tạo xã hội, Ph.Bêcơn khẳng định "tri 
thức là sức mạnh". Từ đó ông đi đến một một kết luận mang tính cách mạng đối 
với người đương thời, coi "hiệu quả và sự sáng chế thực tiễn là người bảo lãnh và 
ghi nhận tính chân lý của các triết học". Muốn chinh phục tự nhiên thì con người 
cần phải nhận thức các quy luật của nó, vận dụng và tuân theo chúng. 
 b) Quan niệm về thế giới và con người 
  Thế giới tồn tại khách quan, đa dạng và thống nhất: 
 Phát triển các quan niệm duy vật thời cổ đại, Ph.Bêcơn cho rằng để lý giải 
được tính muôn màu muôn vẻ của thế giới, chỉ cần mỗi vật chất là đủ. Để giải 
thích thế giới, ông đã cải biến thuyết bốn nguyên nhân của Arixt ốt theo hướng duy 
vật. Ông xoá bỏ nguyên nhân mục đích của các sự vật và cho rằng, mọi cái trên thế 
gian chỉ tồn tại từ ba nguyên nhân: hình dạng, vật chất và vận động. Khác với 
Arixtốt, ông coi hình dạng của sự vật là cái nằm chính trong bản thân sự vật, là bản 
chất hoàn toàn khách quan của nó; không thể có cái gọi là "hình dạng của hình 
dạng" phi vật chất, cũng như "vật chất đầu tiên" phi hình dạng là không có thực; 
mọi "hình dạng" đều chỉ là "hình dạng" của vật chất. Cả ba nguyên nhân "hình 
dạng", "vật chất" và "vận động" thực chất đều là bản tính của vật chất. Vì thế vật 
chất có bản tính là tích cực, có sinh khí chứ không phải thụ động. 
 - 6 - 
 Ph.Bêcơn đã có bước tiến rất xa so với các nhà triết học trước đó và đương 
thời khi quan niệm rằng có sự thống nhất giữa vật chất và vận động, giữa bản chất 
của sự vật và vận động của nó. Khẳng định vận động là đặc tính của sự vật, 
Ph.Bêcơn cho rằng nhận thức sự vật là nhận thức vận động của chúng. C.Mác và 
Ph.Ăngghen đã nhận xét, Ph.Bêcơn đã hiểu "rằng trong những đặc tính vốn có của 
vật chất, vận động là đặc tính thứ nhất và quan trọng nhất, không phải chỉ với tính 
cách là máy móc và toán học mà hơn nữa còn với tính cách là xu hướng, sức sống 
của vật chất". 
 Ph.Bêcơn đã tìm cách phân loại các dạng vận động. Theo ông có 19 dạng 
vận động: 1) vận động xung đối; 2) vận động móc nối; 3) vận động giải phóng mà 
thông qua đó sự vật hướng tới thoát khỏi áp lực; 4) vận động, trong đó sự vật 
hướng tới khối lượng và kích thước mới; 5) vận động liên tục; 6) vận động có lợi; 
7) vận động tự hợp lại với quy mô lớn; 8) vận động tự hợp lại với quy mô nhỏ; 9) 
vận động từ tính; 10) vận động sản sinh ra; 11) vận động chạy trốn; 12) vận động 
thức tỉnh; 13) vận động mô tả, ghi nhận; 14) vận động ngoại tuyến; 15) vận động 
theo xu hướng; 16) vận động hùng tráng; 17) vận động tự quay; 18) vận động rung 
động; 19) đứng yên. 
 Từ đây, có thể thấy rằng, về cơ bản Ph.Bêcơn đã phân loại vận động theo 
cảm tính, mô tả, chưa biết phân loại theo cấp độ khác nhau về cấu trúc của vật chất, 
mà hầu như quy toàn bộ các dạng vận động thành các hình thức vận động cơ học; 
không thấy được sự phát triển của thế giới vật chất đã dẫn đến xuất hiện những 
hình thức vận động khác nhau về chất, phù hợp với trình độ cấu trúc của vật chất. 
Tuy nhiên việc coi đứng yên là một dạng vận động ở Ph.Bêcơn là một quan niệm 
duy vật và cách mạng trong bối cảnh lịch sử hồi đó. Ông cũng là người đầu tiên 
nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới. 
  Con người là một sản phẩm của thế giới: 
 Ph.Bêcơn coi con người là sản phẩm cuả tạo hoá, do vậy khoa học về con 
người cũng là khoa học về tự nhiên. Tiếp thu quan niệm của Arixtốt về con người, 
Ph.Bêcơn chia linh hồn thành các dạng "linh hồn thực vật", "linh hồn động vật", 
"linh hồn lý tính". Hai phần đầu thuộc về linh hồn cảm tính, có cả ở thực vật và 
 - 7 - 
động vật. Trong con người, linh hồn cảm tính là một dạng chất lỏng, pha loãng 
trong cơ thể. Chúng vận động theo các dây thần kinh, tựa như các đường ống, tác 
động lên các giác quan, điều khiển chức năng sống của cơ thể. Bộ phận linh hồn 
này có thể bị huỷ hoại cùng cơ thể khi con người chết đi. Linh hồn lý tính có 
nguồn gốc từ Thượng đế. Đó là một khả năng kì diệu mà chúa đã ban cho con 
người, mang tính thần thánh. Vì con người có cả hai dạng linh hồn nên con người 
vừa rất gần với động vật lại vừa có cái gì đó siêu phàm, và do đó, bản chất con 
người không cho phép con người theo lập trường hoàn toàn vô thần. Con người 
cần có tôn giáo để vượt qua những lúc con người mềm yếu, bất lực. Tôn giáo 
mang lại cho con người niềm tin nhưng nhà thờ không được phép dùng các biện 
pháp chống lại các nhà vô thần, không được cản trở các hoạt động khoa học, nghệ 
thuật của con người. Nhìn chung, quan niệm trên của Ph.Bêcơn thể hiện sự thoả 
hiệp giai cấp tư sản Anh thời đó với các vấn đề tôn giáo. 
 c) Quan niệm về nhận thức: 
  Cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi nhận thức: 
Ph.Bêcơn luôn cho rằng cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri 
thức. Khoa học thực sự phải biết sử dụng tư duy tổng hợp và phương pháp quy nạp 
khoa học để khái quát các dữ kiện do kinh nghiệm mang lại nhằm khám phá ra các 
quy luật, bản chất của thế giới vật chất khách quan, đa dạng và thống nhất. Với 
hoài bão xây dựng một cách nhìn mới về thế giới thật sự khách quan, Ph.Bêcơn 
đồng thời chỉ ra những hạn chế trong khả năng nhận thức của con người, những 
hạn chế không phải chỉ dẫn đến những sai lầm vụn vặt và nhất thời, mà là những 
sai lầm nghiêm trọng không thể tránh khỏi của con người trong nhận thức. Ông gọi 
chúng là các “ảo tượng” 
  Lý luận về ảo tưởng: 
 Các ảo tưởng có nguồn gốc hoàn toàn khách quan, bởi vì chúng một phần có 
trong bản chất của trí tuệ con người, một phần xuất hiện trong quá trình lịch sử 
nhận thức của nhân loại, một phần nảy sinh trong sinh lí và nhân cách của mỗi 
người. Theo Ph.Bêcơn, "trí tuệ con người tự đặt ra chướng ngại vật và cạm bẫy 
cho mình”. Vì các ảo tưởng thường xuyên ám ảnh con người, tạo nên cho nó 
 - 8 - 
những tư tưởng và ảo ảnh giả dối, xuyên tạc bộ mặt thật của thế giới, nói tóm lại, 
cản trở con người xâm nhập vào thế giới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu". Vì vậy, 
quá trình con người đấu tranh khắc phục những hạn chế khách quan đó cũng là quá 
trình con người đấu tranh vì sự hoàn thiện bản thân mình. 
 Ph.Bêcơn phân loại các dạng ảo tưởng như sau: 
 Ảo tượng “loài”: nó sinh ra do việc loài người thường xuyên nhầm lẫn bản 
chất trí tuệ của mình với bản chất khách quan của sự vật. Ai cũng dễ dàng gán cho 
sự vật những đặc tính của riêng con người. Bêcơn nói: "Các ảo tưởng loài có cơ sở 
trong chính bản thân loài người, bởi vì thật là sai lầm khi khẳng định cảm giác cảm 
tính của chúng ta là thước đo sự vật. Ngược lại, tất cả các giác quan cũng như trí 
tuệ đều được dựa trên sự tương đồng của con người, chứ không phải dựa trên sự 
tương đồng của thế giới. Trí tuệ con người cũng tương tự như chiếc gương méo, 
khi nó pha trộn bản chất của mình với bản chất của sự vật thì nó phản ánh các sự 
vật dưới dạng bị xuyên tạc, bóp méo". 
 Sở dĩ có loại ảo tưởng này, theo Ph.Bêcơn là do các giác quan cũng như trí 
tuệ của con người còn chưa được hoàn thiện. Một trong những biểu hiện của ảo 
tưởng này là ở chỗ, người ta thường hay bảo thủ, coi ý kiến và suy nghĩ chủ quan 
của mình là thước đo tất thảy mọi vật. Ảo tưởng loài do vậy rất bền vững. Chúng 
ta chỉ có thể hạn chế ảnh hưởng của ảo tưởng này bằng cách hoàn thiện các nhận 
thức của con người như thực nghiệm …. 
 Việc Ph.Bêcơn đòi hỏi nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan là hợp 
lý. Ông nhận xét đúng rằng, con người thường hay chủ quan, duy ý chí trong hoạt 
động của mình. Nhưng ông lại sai lầm khi phủ nhận hoàn toàn cái chủ quan trong 
nhận thức. Việc đòi hỏi nhận thức phải "khách quan thuần tuý" của ông là một 
điều không tưởng, tuy nhiên nó có ý nghĩa tích cực trong việc phê phán các quan 
niệm thần học chủ quan kinh viện thời đó, vì sự tiến bộ của khoa học. 
 Ảo tưởng “hang động”: Ngoài những ảo tưởng đối với cả loài người, thì 
mỗi người còn có các đặc tính chủ quan, tâm lí, tính cách đặc thù của mình làm 
xuyên tạc bản chất khách quan của sự vật. Chúng còn xuất hiện do hoàn cảnh giáo 
dục của mỗi người cũng khác nhau. Thực chất ảo tưởng hang động chính là ảo 
 - 9 - 
tưởng loài, nhưng biểu hiện ở mỗi người cụ thể ở mức độ và hình thức khác nhau. 
Sở dĩ gọi là