Phép biện chứng là một môn khoa học triết học, xét trên nhiều phương diện, nó
là hiện tượng có ý nghĩa thế giới quan rộng lớn như bản thân triết học. Như vậy,
phép biện chứng ra đời, hình thành và phát triển từ khi triết học ra đời. Trong quá
trình phát triển, phép biện chứng trải qua 3 giai đoạn quan trọng là : phép biện
chứng chất phác của các nhà triết học cổ đại, phép biện chứng duy tâm của triết
học cổ điển Đức, và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong
đó phép biện chứng duy tâm của các nhà triết học cổ điển Đức ( tiêu biểu trong
triết học Kant và H êghen) là một trong những thành tựu vĩ đại trong lịch sử phép
biện chứng. Các nhà triết học cổ điển Đức tiếp thu những tư tưởng biện chứng
trong các di sản triết học truyền thống từ thời cổ đại (Hêraclít), xây dựng phép
biện chứng trở thành một phương pháp luận triết học trong việc nghiên cứu các
hiện tượng tự nhiên và xã hội. và triết học cổ điển Đức mà đỉnh cao là phép biện
chứng duy tâm đã trở thành một trong 3 nguồn gốc hình thành chủ nghĩa M ácLênin.
Trên cơ sở đó em xin chọn đề tài” Những thành tựu và hạn chế của phép
biện chứng trong nền triết học cổ điển Đức”. Thông qua đề tài này không
những cho phép chúng ta nắm vững phương pháp luận của nó, mà còn giúp
chúng ta nắm được bức tranh toàn cảnh, hiểu được nguồn gốc ra đời, sự hình
thành và phát triển của phép biện chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức. Qua
đó cho chúng ta hiểu được những đóng góp to lớn của chúng với tư cách là một
trong ba nguồn gốc hình thành của chủ nghĩa Mác- Lênin; một hệ tư tưởng mà
Việt Nam chúng ta làm cơ sở lý luận cho sự phát triển đất nước tiến lên chủ
nghĩa x ã hội theo hướng công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước.
23 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 8606 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những thành tựu và hạn chế của phép biện chứng trong nền triết học cổ điển Đức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU L UẬN T RIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Tiểu luận
Những thành tựu và hạn chế của phép biện
chứng trong nền triết học cổ điển Đức
HVTH: ĐẶNG PHƯỚC KHOA 1
TIỂU L UẬN T RIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
MỤC LỤC
Lời nói đầu ----------------------------------------------------------------------------------------1
I) Điều kiện kinh tế-xã hội và đặc điểm của triết học cổ điển Đức -------------------2
1. Điều kiện kinh tế-xã hội, khoa học--------------------------------------------------------2
2. Đặc điểm triết học cổ điển Đức ------------------------------------------------------------3
3. Thành tựu và hạn chế của triết học cổ điển Đức ---------------------------------------3
3.1 Thành tựu--------------------------------------------------------------------------------------3
3.2 Hạn chế ----------------------------------------------------------------------------------------5
II) Phép biện chứng cổ điển Đức và một số nhà triết học tiêu biểu -------------------6
1. Phép biện chứng cổ điển Đức --------------------------------------------------------------6
2. Một số nhà triết học tiêu biểu--------------------------------------------------------------6
2.1 Nhà triết học Kant ---------------------------------------------------------------------------6
2.1.1 Phê bình lý luận thuấn túy --------------------------------------------------------------8
a) Định hướng của triết học lí luận: tri thức và vật tự nó--------------------------------8
b) Cảm giác tiên nghiệm; cảm tính, không gian, thời gian -----------------------------9
c) Phân tích học tiên nghiệm: giác tính và phạm trù -------------------------------------9
d) Biện chứng tiên nghiệm:lý tính và Antimoni-------------------------------------------9
2.1.2 Thành tựu -------------------------------------------------------------------------------- 10
2.1.3 Hạn chế ------------------------------------------------------------------------------------ 11
2.2 Nhà triết học Heghen --------------------------------------------------------------------- 11
2.2.1 Khoa học lôgich ------------------------------------------------------------------------- 13
2.2.1.1 Logich học là gí? --------------------------------------------------------------------- 13
2.2.1.2 Những nguyên tắc để xây dựng Logich học ------------------------------------ 14
2.2.1.3 Kết cấu của logich học và phép biện chứng duy tâm------------------------- 14
2.2.1.4 Tư duy biện chứng ------------------------------------------------------------------- 15
2.2.2 Triết học tự nhiên ----------------------------------------------------------------------- 16
2.2.3 Triết học tinh thần ---------------------------------------------------------------------- 16
2.2.4 Thành tựu --------------------------------------------------------------------------------- 18
2.2.5 Hạn chế ------------------------------------------------------------------------------------ 19
Kết luận ------------------------------------------------------------------------------------------- 20
HVTH: ĐẶNG PHƯỚC KHOA 2
TIỂU L UẬN T RIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Lời nói đầu
Phép biện chứng là một môn khoa học triết học, xét trên nhiều phương diện, nó
là hiện tượng có ý nghĩa thế giới quan rộng lớn như bản thân triết học. Như vậy,
phép biện chứng ra đời, hình thành và phát triển từ khi triết học ra đời. Trong quá
trình phát triển, phép biện chứng trải qua 3 giai đoạn quan trọng là : phép biện
chứng chất phác của các nhà triết học cổ đại, phép biện chứng duy tâm của triết
học cổ điển Đức, và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong
đó phép biện chứng duy tâm của các nhà triết học cổ điển Đức ( tiêu biểu trong
triết học Kant và H êghen) là một trong những thành tựu vĩ đại trong lịch sử phép
biện chứng. Các nhà triết học cổ điển Đức tiếp thu những tư tưởng biện chứng
trong các di sản triết học truyền thống từ thời cổ đại (Hêraclít), xây dựng phép
biện chứng trở thành một phương pháp luận triết học trong việc nghiên cứu các
hiện tượng tự nhiên và xã hội. và triết học cổ điển Đức mà đỉnh cao là phép biện
chứng duy tâm đã trở thành một trong 3 nguồn gốc hình thành chủ nghĩa M ác-
Lênin.
Trên cơ sở đó em xin chọn đề tài” Những thành tựu và hạn chế của phép
biện chứng trong nền triết học cổ điển Đức”. Thông qua đề tài này không
những cho phép chúng ta nắm vững phương pháp luận của nó, mà còn giúp
chúng ta nắm được bức tranh toàn cảnh, hiểu được nguồn gốc ra đời, sự hình
thành và phát triển của phép biện chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức. Qua
đó cho chúng ta hiểu được những đóng góp to lớn của chúng với tư cách là một
trong ba nguồn gốc hình thành của chủ nghĩa Mác- Lênin; một hệ tư tưởng mà
Việt Nam chúng ta làm cơ sở lý luận cho sự phát triển đất nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội theo hướng công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước.
HVTH: ĐẶNG PHƯỚC KHOA 3
TIỂU L UẬN T RIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
I) Điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học và đặc điểm của triết học cổ điển Đức
1. Điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học
Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước
Đức vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một quốc gia phong
kiến điển hình, với 360 tiểu vương quốc tự lập trong một liên bang Đức chỉ còn
là hình thức, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp, nông
nghiệp bị đình đốn. Triều đình vua Phổ Phriđrich Vin Hem vẫn tăng cường
quyền lực duy trì chế độ quân chủ, cản trở đất nước phát triển theo con đường tư
bản chủ nghĩa. Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần
chúng.
Trong khi đó ở nước Pháp đã tiến hành cuộc cách mạng tư sản, ở nước Anh
thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp làm rung chuyển châu Âu, đưa châu Âu
bước vào nền văn minh công nghiệp. Tấm gương của các nước Tây Âu đã thức
tỉnh tinh thần cách mạng của giai cấp tư sản Đức và những bộ phận tiến bộ khác
của xã hội Đức. Nhưng vì giai cấp tư sản Đức và những lực lượng tiến bộ khác
nằm rải rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém
về kinh tế và chính trị nên không thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực tiễn,
mà chỉ tiến hành cách mạng về phương diện tư tưởng. Họ muốn thỏa hiệp với
tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết
những vấn đề phát triển đất nước.
Trước đòi hỏi của quá trình phát triển phương thức sản xuất tư bản ở các
nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn: phát hiện ra điện,
phát hiện ra ôxy và bản chất sự cháy của Lavoadie; việc phát hiện ra tế bào của
Lơvenhuc; học thuyết về dưỡng khí của Pritski và Sielo... Những thành tựu đó
chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất
của các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra. Nó đòi hỏi cần có
cách nhìn mới, phương pháp mới, quan niệm mới về vai trò và khả năng của con
người. Triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó.
HVTH: ĐẶNG PHƯỚC KHOA 4
TIỂU L UẬN T RIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
2. Đặc điểm triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng nhưng hình thức
của nó cực kỳ “rối rắm”, bảo thủ. Đặc điểm này thể hiện rõ nét nhất trong triết
học của Kant và Hêghen.
Đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một thực
thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Con người
là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình; tư duy và
ý thức của của con người chỉ có thể phát triển trong quá trình con người nhận
thức và cải tạo thế giới.
Tiếp thu tư tưởng biện chứng trong triết học cổ đại, triết học Đức xây dựng
phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học độc lập với phương pháp
tư duy siêu hình trong lĩnh vực nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Giả
thuyết hình thành vũ trụ của Kant; việc phát hiện ra những quy luật và phạm trù
của Hêghen đã làm cho phép biện chứng trở thành một khoa học thực sự mang ý
nghĩa cách mạng trong triết học. Đây là một đặc điểm nổi bật của triết học cổ
điển Đức.
Với cách nhìn bao quát, biện chứng, nhiều nhà triết học Đức có tham vọng
xây dựng một hệ thống triết học vạn năng không những làm nền tảng cho thế giới
quan của con người mà còn trở thành một thứ khoa học của các khoa học. Do
vậy, trong học thuyết triết học của Kant, Duyrinh, Hêghen thường bàn đến nhiều
vấn đề như: khoa học tự nhiên, pháp quyền, lịch sử, luân lý, mỹ học.
3. Thành tựu và cống hiến.
3.1 Thành tựu
Tuy có những hạn chế trong lĩnh vực chính trị - xã hội nhưng thành tựu của
triết học cổ điển Đức thật là vĩ đại.
Triết học cổ điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến
trình lịch sử nhân loại, nó đề cao vai trò hoạt động tích cực của con người. Khắc
phục triết học truyền thống phương Tây. Nó coi con người là chủ thể hoạt động
như là vấn đề nền tảng, xuất phát điểm của một vấn đề triết học.
HVTH: ĐẶNG PHƯỚC KHOA 5
TIỂU L UẬN T RIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Kế tục tư tưởng triết học cổ đại (Xôcrat cho triết học là sự tự ý thức của con
người về chính bản thân mình) và phục hưng (coi con người là trung tâm). Kant
lần đầu tiên hiểu con người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt
động của mình, khẳng định hoạt động thực tiễn cao hơn lý luận. Hêghen phát
triển thêm tư tưởng này và coi bản thân lịch sử phương thức tồn tại của con
người, mỗi cá nhân hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình. Ông khẳng định: con
người là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất là định vì vậy nó mang bản chất
xã hội.
Trước những thành tựu khổng lồ của kinh tế - xã hội, khoa học - văn hoá.
Các nhà triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hêghen đều đề cao sức mạnh trí tuệ và
khả năng hoạt động của con người. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh sức mạnh của con
người họ đã rơi vào cực đoan, họ đã thần thánh hoá con người, coi con người là
chúa tể tự nhiên, bản thân giới tự nhiên nhiều chỗ cũng được họ luận giải như kết
quả hoạt động của con người.
Tuy vậy phải thấy một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ điển
Đức là nó khẳng định rằng tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng
mực con người nhận thức và cải tạo thế giới. Con người là chủ thể, đồng thời là
kết quả của toàn bộ nền văn minh do chính mình tạo ra, nghiên cứu tiến trình lịch
sử nhân loại cũng như toàn bộ mối quan hệ con người - tự nhiên như một quá
trình phát triển biện chứng.
Tuy từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên
các hệ thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, lôgích biện
chứng, học thuyết về các quá trình phát triển, mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả cá
tìm tòi của họ đó là phép biện chứng.
Với cách nhìn tổng quát và phương pháp biện chứng, các nhà triết học cổ
điển Đức có ý đồ hệ thống hoá toàn bộ tri thức và thành tựu mà nhân loại đã đạt
được. Tiếp thu tinh hoa của siêu hình học thế kỷ XVIII trong việc phát triển tư
duy lý luận và hệ thống hoá toàn bộ tri thức loài người, Kant và Hêghen có ý đồ
xây dựng một hệ thống triết học vạn năng làm nền tảng cho thế giới quan của con
người, khôi phục lại các quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học.
HVTH: ĐẶNG PHƯỚC KHOA 6
TIỂU L UẬN T RIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Phải nói rằng: triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch
sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh
cao của thời kỳ triết học cổ điển ở phương Tây, đồng thời nó ảnh hưởng to lớn
đến triết học hiện đại.
3.2 Mặt hạn chế:
Hạn chế chung nhất trong thế giới quan của các nhà triết học cổ điển Đức
thể hiện rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng - khoa học về tư tưởng với tính bảo
thủ về lập trường chính trị - xã hội hầu hết các nhà triết học thời kỳ này đều xây
dựng được hệ thống triết học chứa đựng những tư tưởng khoa học lớn có tính
vạch thời đại, đặc biệt là triết học Kant và Hêghen. Nhưng họ lại không dám tiến
hành, thực hiện những cuộc cải cách, bảo vệ chính thể Nhà nước Phổ phong kiến.
Chủ nghĩa duy tâm thần bí, phía trước và bên cạnh các nhà triết học cổ điển
Đức là một dòng triết học duy vật, đặc biệt là tư tưởng duy vật của các nhà triết
học khai sáng. Song các nhà triết học cổ điển Đức thấy rằng: từ quan điểm duy
vật, người ta không thể giải thích được thế giới. Bản chất của thế giới theo họ là
tinh thần, do vậy chỉ có thể giải quyết được những vấn đề của thế giới bằng tinh
thần. Họ đã từ thế giới tinh thần xây dựng nên những hệ thống triết học duy tâm,
thần bí.
Triết học trừu tượng tách rời hiện thực, triết học cổ điển Đức đưa ra được
những tư tưởng tiến bộ, chống chế độ xã hội cũ nhưng đó chỉ là những tư tưởng,
nó không đi vào chính trị xã hội và hoạt động cách mạng mà chỉ là những hệ
thống triết lý trừu tượng ở bên trên.
Nếu các nhà tư tưởng pháp tiến hành cách mạng trong thực tiễn, công khai
chống lại Nhà nước và giáo hội thì các nhà triết học cổ điển Đức chỉ suy nghĩ về
nó trong tư tưởng, không giám công khai chống lại thực tại đó. Họ là các giáo sư
chính thức trong các trường Đại học của vương quốc Phổ, do sợ hãi hiện thực
cách mạng, thoả hiệp với giai cấp tư sản, tư tưởng cách mạng của họ đã phải phủ
ngoài triết học cảu mình một lớp vỏ thần bí duy tâm tự biện, nặng nề, xa rời hiện
thực.
HVTH: ĐẶNG PHƯỚC KHOA 7
TIỂU L UẬN T RIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
II) Phép biên chứng cổ điển Đức và một số nhà triêt học tiêu biểu
1. Phép biện chứng cổ điển Đức
Phép biện chứng là thành tựu lớn nhất trong nền triết cổ điển Đức, được thể
hiện qua tư tưởng triết học của hai nhà triết học lớn là Kant và Heghen.
Tư tưởng biên chứng của Kant gồm:
- Giả thiết về sự hình thành vũ trụ
- Biện chứng trong quá trình nhận thức
- Học thuyết về mâu thuẫn ( Antimoni)
Tư tưởng biện chứng của Heghen gồm:
- Lôgích học: trình bày về sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối”, biểu hiện trong
các học thuyết: tồn tại, bản chất, khái niệm
- Triết học tự nhiên:có sự đóng góp trong tư tưởng về sự thống nhất giữa vật chất
và vận động, không gian, thời gian, về sự thống nhất giữa tính liên tục và đứt
đoạn trong vận động.
- Triết học tinh thần: coi lịch sử là quá trình phát triển hợp quy luật, trong đó có
sự kế thừa.
2. Một số nhà triết học tiêu biểu
2.1 Nhà triết học Kant
Kant là người sáng lập ra triết học cổ điển Đức. Ông sinh ngày 22 - 04 -
1724 và lớn lên trong một gia đình trung lưu gốc Scốtlen tại Kenítbec, một thành
phố cổ vùng Đông - Bắc nước Phổ trước đây. Mùa thu năm 1740 ông vào học
khoa Triết học trường đại học Kenítbec. Ở đây ông được trang bị không chỉ Triết
học mà cả khoa học tự nhiên. Ngay từ những năm trong trường đại học ông đã rất
quan tâm và có năng khiếu về các môn toán học và vật lý học và cơ học, vũ trụ
học...
Năm 1770, ông trở thành giáo sư và là Giám đốc trường Đại học Kennitbéc.
Năm 1775, ông nhận học viện Tiến sỹ triết học với luận văn: “Lịch sử tự nhiên
và lý thuyết về thiên hà”.
Kant không hề ra khỏi thành phố quê hương quá 60 dặm và suốt đời độc
thân. ông mất ngày 12 tháng 4 năm 1804. Ở trường đại học Kenitbéc, Kant giảng
HVTH: ĐẶNG PHƯỚC KHOA 8
TIỂU L UẬN T RIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
một loạt các môn học: Siêu hình học (triết học) và lôgích học, toán học và cơ
học, vật lý học và địa chất học, nhân loại học và lịch sử tự nhiên đại cương. Ông
còn giảng cả vũ trụ học, địa vật lý, nhân chủng học. Cũng ở đây, Kant đã tập
trung toàn bộ sức lực và thời gian để thực hiện nhiệm vụ mà cả cuộc đời ông đã
đặt ra cho mình là xây dựng một hệ thống triết học mới. Nhiều công trình khoa
học tự nhiên và triết học của ông đã ra đời, nâng ông lên vị trí một trong những
học giả uyên bác nhất thời đó. Những học thuyết của ông thống trị tư tưởng khoa
học và triết học tư sản thế kỉ XIX. Ông đã để lại cho nhân loại một trong những
hệ thống triết học độc đáo và sâu sắc nhất.
Cuộc đời hoạt động triết học của Kant được chia làn hai thời kỳ: trước phê
phán và sau phê phán.
Trong thời kỳ trước phê phán ( trước năm1770), Kant xuất phát từ quan
điểm duy vật tự phát và biện chứng tự nhiên, tập trung nghiên cứu các vấn đề về
khoa học và triết học tự nhiên như: giải thích hiện tượng thủy triều, lý giải sự
phát triển của thái dương hệ ( vũ trụ), đưa ra giả thuyết về vũ trụ với câu nói nổi
tiếng” hãy cho tôi vất chất,tôi sẽ chỉ cho các anh thấy thế giới phải ra đời từ vật
chất như thế nào”
Khi dựa trên cơ học của Newton và vật lý học của Decate-Lepnit, Kant coi
giới tự nhiên như một hệ thống luôn nằm trong quá trình phát triển ngày càng
hoàn thiện. Theo ông từ xa xưa, cả thế giới đều nằm trong trạng thái hỗn độn,
nhờ lực vạn vật hấp dẫn mà các vật chất khuyếch tán khắp nơi trong không gian
và tụ lại thành những đám mây lớn, dưới tác dụng của lực hút và lực đẩy mà
trong lòng các đám mây xuất hiện các luồng gió xoáy làm cho cho các hạt vật
chất kết lại theo dạng cầu. Ma sát làm cho các hạt vật chất nóng lên và do lực hút
chiếm ưu thế lớn hơn so với lực đẩy mà chúng kết tụ lại với nhau thành mặt trời
và các hành tinh khác có độ nóng khác nhau. Vì khoảng không vũ trụ quá lớn và
do lực đẩy hiện diện, nên lực hút không đủ quy tụ vật chất trong vũ trụ lại thành
một khối lớn mà thành nhiều khối nhỏ hơn tạo thành các hành tinh độc lập. Vì
cường độ của lực hấp dẫn tỉ lệ thuận với khối lượng, nên các hành tinh càng xa
mặt trời càng nhẹ, còn nhân của hành tinh thì nặng hơn lớp vỏ của nó.
HVTH: ĐẶNG PHƯỚC KHOA 9
TIỂU L UẬN T RIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Sang thời kỳ phê phán ( sau 1770), do chịu ảnh hưởng của các biến động xã hội
tiền các mạng tư sản Pháp và quan điểm triết học của Lepnit, Vonphơ… mà Kant
chuyển phong cách triết lý sang tinh thấn phê phán để nghiên cứu lại toàn bộ di
sản triết học hiện có. Đối với Kant, nhiệm vụ của triết học là xác định bản chất
con người.
Để khám phá được bản chất con người, Kant đòi hỏi phải coi con người như
một chủ thể hoạt động nói chung, con người bao quát cả lĩnh vực nhận thức, lĩnh
vực thực tiễn và lĩnh vực giá trị. Khi đó con người cầm phải trả lời 3 câu hỏi lớn:
tôi có thể biết được điều gì? Tôi cần phải làm gì? Tôi có thể hi vọng vào cái gì?.
Toàn bộ triết học của Kant là lời giải đáp cho các bức xúc trên.
2.1.1 Phê bình lý luận thuần túy
a) Định hướng của triết học lí luận: tri thức và vật tự nó
Kant cho rằng, các lý luận nhận thức trước đây không đáp ứng được các
tiêu chuẩn để xây dựng hệ thống tri thức khoa học. Vì vậy, muốn xây dựng lý
luận nhận thức khoa học trước hết hết phải biết phê phán, phê phán không chỉ
đơn thuần là mổ xẻ để tìm sai sót trong lý luận nhận thức cũ mà còn thiết lập khả
năng nhận thức của con người, của triết học đối với mỗi ngành khoa học. Khi đó
con người sẽ biết được khả năng nhận thức được thế giới được hay không? Nếu
có thì giới hạn khả năng nhận thức thế giới được hay không? Nhận thức thức
tương đối hay tuyết đối?
Theo ông thế giới vật chất tồn tại khách quan dưới dạng những những sự
vật cá biệt. Tuy nhiên khi nghiên cứu nó, chúng ta gặp phải mâu thuẫn trong
nhận thức; bởi vì một mặt, nếu thừa nhận tri thức phản ánh thế giới khách quan,
mà thế giới khách quan tồn tại dưới dạng sự vật cá biệt, thì tri thức đó phải là tri
thức riêng lẻ, ngẫu nhiên chứ không phải là tri thức phổ biến, tất yếu. Mặt khác,
nếu đòi hỏi tri thức phải mang tính phổ biến, tất yếu thì phải thừa nhận tri thức
này không phản ánh thế giới khách quan, nghĩa là chỉ thừa nhận tri thức chỉ là
sản phảm của tư duy. Để giải quyết mâu thuẫn này ông buộc phải đưa ra khái
niệm vật tự nó và thừa nhận sự tồn tại của tri thức tiên nghiệm.
HVTH: ĐẶNG PHƯỚC KHOA 10
TIỂU L UẬN T RIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Kant chia tri thức của con người thành tri thức kinh nghiệm và tri thức tiên
nghiệm. Khi vận động, bản chất của thế giới-vật tự nó lộc lộ ra thành các hiện
tượng; con ngườ