- Lý do tôi chọn đề tài này cũng vì nhưng mục đích và tính cấp thiết của nó. Chúng tôi nhằm tìm ra những cái mới, cái thay đổi, sự thay đổi diễn ra như thế nào? Những sự đổi thay đó có những điều gì cần định hướng cho xã hội cũng như dân tộc Cơ Ho nói riêng và từ đó đưa ra những giải pháp cấp thiết nhằm phục vụ cho việc đưa ra những chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với điều kiện trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đối vùng đồng bào dân tộc nói riêng và cả nước nói chung.
- Những đổi thay trong văn hóa truyền thống của người Cơ Ho so với văn hóa hiện nay, những nguyên nhân nào làm cho có sự đổi thay như vậy?, và từ những đổi thay đó thì có ảnh hưởng gì đến sự tồn vong của một dân tộc như người Cơ Ho (mặt tích cực và mặt tiêu cực). Trong thời kỳ hiên nay sự thay đổi này không chỉ có ở người Cơ Ho mà là diễn ra trong toàn xã hội không chỉ trong một tộc người hay chỉ đơn thuần một dân tộc, nhưng những thay đổi đó có đem lại lợi ích cho xã hội đó hay không? Hay chỉ phục vụ cho một dân tộc, có phù hợp với quy luật phát triển của xã hội không? Dưới áp lực của xã hội hiện nay họ còn giữ được bản sắc truyền thống của mình như thế nào?.
- Chính vì những lý do đó tôi đã chọn đề tài: : “Những thay đổi trong truyền thống văn hóa của người Cơ Ho trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” để nghiên cứu.
23 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2918 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những thay đổi trong truyền thống văn hóa của người Cơ Ho trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Phần một: Dẫn luận. Trang
I/ Tính cấp thiết của đề tài. 2
II/ Mục tiêu của đề tài. 3
III/ Nhiệm vụ của đề tài. 3
IV/ Phương pháp nghiên cứu. 4
V/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 4
Phần hai: Nội dung
Chương I:Tìm hiểu tổng quan về người Cơ Ho và truyền thống văn hóa của họ. 5
1.Các nhóm. 5
2.Kinh tế. 6
3. Xã hội. 7
4. Sinh hoạt. 8
5. Tín ngưỡng. 9
6. Văn học nghệ thuật. 10
7. Lễ hội. 10
Chương II: sự thay đổi về truyền thống văn hóa hiện nay của người Cơ Ho trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, xã hội, sinh hoạt, tín ngưỡng, văn học nghệ thuật và lễ hội. 11
1.Kinh tế. 13
2. Xã hội. 14
3. Sinh hoạt. 15
4. Tín ngưỡng. 16
5. Văn học nghệ thuật. 16
6. Lễ hội. 17
Chương III: Các giải pháp, kiến nghị để truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu số được bảo tồn và phát triển và nhất là người Cơ Ho ở Tây Nguyên. 19
Phần: Kết luận. 21
Tài liệu tham khảo. 23
ĐỀ TÀI: Những thay đổi trong truyền thống văn hóa của người Cơ Ho trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phần một: Dẫn luận
I/ Tính cấp thiết của đề tài:
- Lý do tôi chọn đề tài này cũng vì nhưng mục đích và tính cấp thiết của nó. Chúng tôi nhằm tìm ra những cái mới, cái thay đổi, sự thay đổi diễn ra như thế nào? Những sự đổi thay đó có những điều gì cần định hướng cho xã hội cũng như dân tộc Cơ Ho nói riêng và từ đó đưa ra những giải pháp cấp thiết nhằm phục vụ cho việc đưa ra những chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với điều kiện trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đối vùng đồng bào dân tộc nói riêng và cả nước nói chung.
- Những đổi thay trong văn hóa truyền thống của người Cơ Ho so với văn hóa hiện nay, những nguyên nhân nào làm cho có sự đổi thay như vậy?, và từ những đổi thay đó thì có ảnh hưởng gì đến sự tồn vong của một dân tộc như người Cơ Ho (mặt tích cực và mặt tiêu cực). Trong thời kỳ hiên nay sự thay đổi này không chỉ có ở người Cơ Ho mà là diễn ra trong toàn xã hội không chỉ trong một tộc người hay chỉ đơn thuần một dân tộc, nhưng những thay đổi đó có đem lại lợi ích cho xã hội đó hay không? Hay chỉ phục vụ cho một dân tộc, có phù hợp với quy luật phát triển của xã hội không? Dưới áp lực của xã hội hiện nay họ còn giữ được bản sắc truyền thống của mình như thế nào?.
- Chính vì những lý do đó tôi đã chọn đề tài: : “Những thay đổi trong truyền thống văn hóa của người Cơ Ho trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” để nghiên cứu.
II/ Mục tiêu của đề tài:
- Mục tiêu của chúng tôi là nhăm cung cấp thông tin để từ đó có một cái nhìn khách quan hơn về vấn đề này, từ đó có những chính sách phù hợp để phát triển văn hóa mà vẫn giữ được văn hóa truyên thống của mình.
- Có thể tìm ra nguyên nhân của sự thay đổi, tìm ra mặt tích cực và mặt tiêu cực của sự thay đổi đó. Từ đó đề xuất một số kiến nghị cho các cơ quan chức năng, ban ngành liên quan để tham khảo.
III/ Nhiệm vụ của đề tài:
Để hoàn thành mục tiêu đã đặt ra nên chúng tôi đưa ra một số nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu về dân tộc Cơ Ho, so sánh sự thay đổi giữa văn hóa truyền thống và sự tiếp biến văn hóa hiện nay của dân tộc này và sự thay đổi đó đang diễn ra như thế nào?.
- Tìm hiểu sự thay đổi ở các lĩnh vực: Hoạt động sản xuất, quan hệ xã hội, hôn nhân gia đình, nhà cửa, trang phục, đời sống tinh thần (lễ hội, sinh hoạt tín ngưỡng, văn học nghệ thuật), tệ nạn xã hội, lối sống giới trẻ.
- Tìm hiểu về người Cơ Ho, thực trạng, nguyên nhân của sự đổi thay.
- Từ đó đề xuất các giải pháp cho các cơ quan ban ngành tham khảo và đưa ra những định hướng, chính sách của Đảng và Nhà nước tham khảo, để có những hành động cụ thể đối với vùng đồng bào dân tộc. Việc bảo tồn,gìn giữ các sản phẩm văn hóa truyền thống của các dân tộc, định hướng cho họ có những tiếp thu văn hóa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại thời kỳ đổi mới.
IV/ Phương pháp nghiên cứu:
Ở đây chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: Khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh.
V/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
1/Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng ở đây là nghiên cứu về sự thay đổi về truyền thống văn hóa so với văn hóa hiện nay của dân tộc Cơ Ho như thế nào?. Nghiên cứu về người Cơ Ho, về văn hóa của họ để so sánh xem họ đã có những sự thay đổi gì.
2/Phạm vi nghiên cứu:
+Phạm vi thời gian: Về cơ bản là từ khi người Co Ho hình thành và phát triển những truyền thống văn hóa đặc trưng cho đến hiện nay.
+Phạm vi không gian: Do những điều kiện chủ quan và khách quan, chúng tôi chỉ khảo sát người Cơ Ho trên địa bàn tại Tỉnh Lâm Đồng và là nơi tập trung người Cơ Ho đông nhất cả nước.
Phần hai: Nội dung
CHƯƠNG I: TÌM HIỂU TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI CƠ HO VÀ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA CỦA HỌ.
Cơ Ho (hay Cờ Ho, Cơ ho) là một dân tộc Việt Nam. Theo tổng điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 1989, dân tộc Cơ Ho có trên 82.917 người, đến 1 tháng 4 năm 1999 có 128.723 người. Địa bàn cư trú chủ yếu của dân tộc này là tỉnh Lâm Đồng, bao gồm nhiều nhóm địa phương như Cơ Ho Srê, Cơ Ho Chil, Cơ Ho Nộp, Cơ Ho Lạt, Cơ Ho String và Cơ Ho Cờ Dòn.
1.Các nhóm
Cơ Ho Srê là nhóm có dân số đông nhất trong các dân tộc Cơ Ho.
Nhóm Cơ Ho Chil (ngày 1 tháng 4 năm 1989) có khoảng 18.000 người. Trước đây, họ cư trú rải rác trên vùng núi cao thuộc thượng lưu Sông Krông Knô (Bắc và Tây-Bắc cao nguyên Lang Biang). Nhưng do sống du canh, du cư, nên từ lâu, họ đã di chuyển xuống phía Nam (vùng Bắc và Đông- Bắc thành phố Đà Lạt) kế cận với địa bàn cư trú của nhóm Cơ Ho Lạt, người Chu Ru và Raglai. Hiện nay, họ cư trú trên địa bàn các huyện Đức Trọng, Lâm Hà, Lạc Dương, Đơn Dương và vùng phụ cận thành phố Đà Lạt...
Nhóm Cơ Ho Lạt cư trú tập trung ở Xã Lát và một số vùng thung lũng xung quanh thành phố Đà Lạt. Do có điều kiện tiếp xúc, giao lưu lâu dài với người Kinh, nên đời sống kinh tế nhóm này có những tiến bộ nhất định so với các nhóm Cơ Ho Dòn, Nộp, Chil...
Nhóm Cơ Ho Nộp cư trú phía Nam Di Linh, ven đường số từ Di Linh đi Phan Thiết. Do quá trình giao lưu văn hóa xã hội lâu đời với các dân tộc anh em ở Bình Thuận, nhất là người Chăm, nên người Cơ Ho Nộp còn lưu giữ một số yếu tố văn hóa của các dân tộc đó như tục ăn trầu, và trồng trầu, cau xung quanh địa điểm cư trú của mình.
Nhóm Cơ Ho Cờ Dòn cư trú ở miền núi phía Đông-Nam Di Linh, gọi là vùng Gia Bắc, kế cận với địa bàn cư trú của người Cơ Ho Nộp, tập trung đông nhất tại xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh.
Nhóm Cơ Ho T'ring cư trú rải rác ở Khánh Hòa, Lâm Đồng.
2. Kinh tế
Chà gạc (yoas) là dụng cụ để chặt cây, phát rẫy của người Cơ Ho. Cán chà gạc được làm bằng một đoạn gốc tre già và phía gốc, chỗ tra lưỡi dao được uốn cong khá cầu kỳ. Người ta uốn một lúc nhiều cán chà gạc trên một chiếc cột như thấy trong ảnh.
Kinh tế của người Cơ Ho là chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, ngoài ra còn có săn bắt và hái lượm lâm thổ sản và một số nghề thủ công như rèn, đan lát, dệt.
Sản xuất nông nghiệp
Trồng trọt: tùy theo đặc điểm địa lý và xã hội của mỗi nhóm mà ngành trồng trọt ở mỗi nhóm có những nét khác nhau. Riêng đối với người Srê, phương thức canh tác chủ đạo là trồng lúa trên ruộng nước ở các thung lũng (Srê nghĩa là ruộng nước) còn những nhóm người Cơ Ho khác do cư trú ở vùng núi cao, nên phát rừng làm rẫy (mir) để trồng ngô, lúa rẫy, sắn. Họ thường phát rẫy như sau: trước tiên, đàn bà, trẻ em dùng chà gạc (yoas) chặt những cây nhỏ và dây leo nhưng không cần chặt đứt hẳn, tiếp đó, đàn ông dùng rìu (sùng) đốn những cây lớn dần từ dưới lên đỉnh dốc, những cây này ngã sẽ kéo theo cây nhỏ và dây leo. Sau khi phơi nắng độ hơn một tháng, người ta châm lửa đốt rồi dọn rẫy để gieo hạt khi mùa mưa bắt đầu (khoảng tháng tư). Những nhóm làm rẫy thường sống du cư, khi đất canh tác bạc màu lại chuyển đến nơi khác. Ngoài những cây lương thực chủ yếu, người Cơ Ho còn trồng lẫn các loại rau (bầu, bí, mướp, đậu...). Họ cũng làm vườn, trồng cây ăn quả như mít, bơ, chuối, đu đủ...
Chăn nuôi: gia súc, gia cầm như trâu, bò, lợn (heo), dê, gà, vịt... theo phương thức thả rông. Trâu, bò chỉ dùng làm sức kéo ở những vùng làm ruộng nước, còn lại chủ yếu để hiến tế trong các nghi lễ.
Các nghề khác: săn bắt thú rừng, đánh cá, hái lượm lâm thổ sản vẫn rất phổ biến. Các nghề thủ công phổ biến nhất là đan lát và rèn, riêng người Chil còn có thêm nghề dệt, ngoài ra một số nơi có nghề gốm (làm theo phương thức không có bàn xoay).
Công cụ sản xuất truyền thống: rìu (sùng); chà gạc (woát hay yoas - dùng để chặt cây, là một đoạn tre già uốn cong một đầu để tra lưỡi sắt), gậy chọc lỗ tra hạt (chrmul), riêng nhóm Chil ngoài gậy chọc lỗ tra hạt còn có thêm p'hal (dùng khi vừa chọc lỗ vừa tra hạt, có cán bằng gỗ, lưỡi sắt dài khoảng 28 cm, rộng 3-4 cm). Công cụ canh tác lúa nước của người Srê có cuốc; cày (ngal) làm bằng gỗ, trước đây lưỡi cũng bằng gỗ nhưng gần đây thay bằng sắt; bừa (Sơkam) răng gỗ và Kơr (dùng để trang đất cho bằng phẳng). Cày, bừa và kơr đều do 2 trâu kéo.
3. Xã hội
Đơn vị tổ chức xã hội thường thấy của người Cơ Ho là Bon (tương đương với làng). Đó vừa là một đơn vị tổ chức xã hội, vừa là một đơn vị kinh tế tự cấp, tự túc của dân tộc Cơ Ho. Bon là làng truyền thống theo kiểu một công xã nông thôn mang đậm dấu ấn của thị tộc mẫu hệ dựa trên cơ sở cư trú trong những căn nhà dài, kế cận nhau theo nhóm dòng họ. Đứng đầu bon là già làng (Kuang bon). Về quyền lợi kinh tế, già làng cũng giống như mọi thành viên khác của làng nhưng về mặt tinh thần, người này lại có uy tín gần như tuyệt đối so với các thành viên khác trong làng. Già làng là hiện thân của truyền thống và là một yếu tố tinh thần đưa đến sự thống nhất của cộng đồng (bon) trong xã hội truyền thống của người Cơ Ho. Trong xã hội truyền thống thì chủ làng, cùng với chủ rừng (Tombri), thầy cúng và các gia trưởng hợp thành tầng lớp trên của người Cơ Ho. Sự khác biệt giữa các tầng lớp trong xã hội truyền thống chủ yếu dựa vào sự khác biệt chút ít về những tư liệu sinh hoạt như chiêng, ché, nồi đồng, chứ không phải là các tư liệu sản xuất chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp. Chưa có sự bóc lột sức lao động của những thành viên khác trong cộng đồng làng, cộng đồng dân tộc... Tuy nhiên trong xã hội đó, đã xuất hiện sự phân tầng xã hội: kẻ giàu, người nghèo, con ở hoặc tôi tớ trong gia đình. Ở những vùng tập trung dân cư với mật độ cao, hình thành một tổ chức liên minh giữa những bon với nhau trên cơ sở tự nguyện, gọi là M'đrông.
Trang phục truyền thống của phụ nữ Cơ Ho là chiếc váy quấn dài, màu xanh chàm có dệt đan cài những đường sọc ngang bằng sợi khác màu. Khi trời lạnh, họ choàng lên người một tấm đắp mỏng. Cô gái Cơ Ho thường tập dệt vải từ khi còn nhỏ để đến tuổi trưởng thành thì đem sản phẩm dệt của mình làm đồ sính lễ sang nhà trai.
Trong xã hội truyền thống của người Cơ Ho đã tồn tại hai hình thức gia đình theo chế độ mẫu hệ: gia đình lớn và gia đình nhỏ. Người phụ nữ đúng vai trò chủ động trong hôn nhân, sau hôn lễ, người đàn ông về nhà vợ ở (nếu gặp trường hợp gia đình hiếm muộn thì người phụ nữ vẫn có thể ở nhà chồng), con cái tính dòng họ theo mẹ, con gái là người thừa kế. Tập tục cổ truyền của người Cơ Ho tuyệt đối cấm kỵ việc kết nôn giữa những người có cùng một dòng họ, nhất là ở cùng một địa phương. Con chú, con bác, con dì, không được lấy nhau. Trái lại, con cô, con cậu từ hai phía có thể có quan hệ hôn nhân với nhau theo luật tục. Sau khi vợ chết, người chồng có thể kết hôn với người em gái của vợ. Và ngược lại, nếu chồng chết, người vợ góa có thể kết hôn với người em trai của chồng nếu đôi bên ưng thuận. Hôn nhân của người Cơ Ho dựa trên cơ sở sự ưng thuận giữa hai bên trai gái, cha mẹ không quyết định. Theo xu thế phát triển quá trình giải thể các gia đình lớn chuyển dần sang gia đình nhỏ đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là ở những vùng kinh tế phát triển hơn hoặc ở gần đường giao thông lớn, đô thị. Độ tuổi kết hôn của người Cơ Ho thường là 16 - 17 tuổi đối với nữ và 18 - 20 tuổi đối với nam, bình quân một phụ nữ sinh 5 - 6 con nên tỷ lệ sinh cao.
4.Sinh hoạt
Ẩm thực: Người Cơ Ho thường ăn ba bữa, theo tập quán ăn bốc, lương thực chính là gạo ăn với thực phẩm như cá, thịt, rau. Trước kia, họ nấu ăn bằng ống nứa, sau này mới dùng các dụng cụ nấu ăn bằng đất nung, đồng, gang. Các món ăn thường chế biến khô để thuận tiện cho ăn bốc. Thực phẩm kho hoặc luộc, canh được chế biến từ rau trộn với tấm và cho thêm ớt, muối. Thức uống là nước suối, dụng cụ trữ nước uống là những quả bầu khô hoặc ghè. Người Cơ Ho hút các loại cây thuốc phơi khô cuốn lại, rượu cần (tơrnơm) làm từ gạo, ngô, sắn...với men chế biến từ cây rừng rất được ưa chuộng trong các bữa tiệc, lễ hội...
Trang phục: trang phục của đàn ông là khố bằng vải bản rộng, dài khoảng 1,5 - 2 m, có hoa văn theo dải dọc. Phụ nữ dùng váy bằng một tấm vải quấn quanh người rồi giắt cạp.
Vay nền đen, có diềm hoa văn trắng. Nếu thời tiết lạnh, họ khoác thêm chăn (ùi) ra ngoài. Phụ nữ dùng vòng cổ, vòng tay, cườm và khuyên căng tai làm đồ trang sức.
Nhà ở: người Cơ Ho ở nhà sàn dài bằng gỗ, hai mái uốn cong, lợp bằng cỏ tranh, có liếp nghiêng ra phía ngoài và cũng lợp tranh để chống lạnh. Trước cửa ra vào là cầu thang lên xuống, vách đối diện với cửa để ché, giỏ đựng đồ đạc và bàn thờ. Mọi sinh hoạt chủ yếu (ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách) đều diễn ra quanh bếp lửa trong nhà.
5. Tín ngưỡng
Người Cơ Ho tin rằng mọi mặt của đời sống đều do các thế lực siêu nhiên quyết định. Tín ngưỡng về siêu nhiên trong quan niệm của người Cơ Ho có tính chất đa thần...Thần linh (yang) là thế lực phù hộ cho con người vị và ma quỷ (chà) lại gây tai họa. Vị thần tối cao là Nđu, rồi có thần Mặt Trời, Mặt Trăng, thần Núi, thần Sông, thần Đất, thần Lúa...Họ cúng tế trong những dịp thực hiện hoặc xảy ra những sự kiện quan trọng (hiếu hỷ, những giai đoạn trong sản xuất, ốm đau bệnh tật...). Liên quan đến trồng lúa, người Cơ Ho thực hiện các lễ nghi ở từng công đoạn như gieo lúa, khi lúa trổ bông, đạp lúa và cho lúa vào kho. Trong các nghi lễ cúng tế, tuỳ tầm quan trọng của buổi lễ họ dùng trâu, lợn, dê, hoặc gà để tế sống cùng với rượu. Bàn thờ (nao) thường đặt ở chỗ trang trọng và tôn nghiêm nhất trong nhà. Bàn thờ ngày trước làm bằng ván gỗ có chạm trổ nhưng nay hầu như không còn nữa, giờ đây người ta nhận ra chỗ thờ cúng nhờ những nhánh cây, bông lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào.
Đến nay các lễ nghi phong tục cổ truyền của người Cơ Ho vẫn còn được bảo lưu. Nhưng bên cạnh đó, mấy chục năm lại đây một bộ phận khá lớn người Cơ Ho đã tin theo những tôn giáo du nhập từ bên ngoài như Thiên chúa giáo, nhất là Tin lành. Kinh thánh và các tài liệu truyền giáo khác được dịch ra tiếng Cơ Ho và các mục sư, người truyền đạo đã sử dụng ngôn ngữ đó trong việc truyền giảng đạo.
6. Văn học, nghệ thuật
Chữ viết: Vào đầu thế kỷ 20, chữ Cơ Ho được xây dựng bằng hệ thống chữ Latin nhưng mặc dù đã được cải tiến nhiều lần, được dùng để dạy trong một số trường học, nhưng loại chữ này chưa phổ cập.
Văn học nghệ thuật: Vốn văn học nghệ thuật dân gian Cơ Ho khá phong phú. Thơ ca đậm chất trữ tình và giàu nhạc tính. Một số vũ khúc cổ truyền thường được diễn trong các lễ hội. Các nhạc cụ truyền thống như bộ cồng chiêng gồm 6 chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre (Kơrla), trống (Sơgơr)... có khả năng hòa âm với lời ca hoặc độc tấu. Gần đây, ông Nguyễn Huy Trọng, một linh mục ở giáo xứ Kala, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng đã sưu tập được khoảng 400 chuyện cổ tích, nhiều câu thơ (tam pla) và 30 trường ca, sử thi của người Cơ Ho trong đó có trường ca Gơ Plom Kòn Yồi dài hơn 6.000 câu. Những kết quả sưu tập này bước đầu đã được gửi cho cơ quan chuyên môn.
7. Lễ hội
Hàng năm, người Cơ Ho tổ chức ăn Tết khi mùa màng đã thu hoạch xong (theo thời vụ hiện nay thường vào tháng 12 dương lịch). Tết này có ý nghĩa đón lúa về nhà (Nhô Lir Bông hay Nhô Lirvong ). Theo tập quán, các gia đình thay phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để cả bon tổ chức lễ đâm trâu (nho sa rơ pu) trong dịp này. Lễ tổ chức ngoài trời trước nhà chủ có vật hiến tế, nhà già làng hay trên mảnh đất rộng, bằng phẳng, cao ráo trong làng, với cây nêu trang trí sặc sỡ. Mọi người nhảy múa theo tiếng cồng chiêng. Thịt trâu được chia cho từng gia đình, còn máu trâu bôi vào trán những người dự lễ như một sự cầu phúc. Lễ tết kéo dài 7 - 10 ngày, trong các ngày Tết, dân làng đến chung vui với từng gia đình. Trong từng gia đình, người ta cũng tổ chức hiến tế gà, bôi máu lên vựa thóc, sàn kho, cửa ra vào, cửa sổ. Sau Tết, người ta mới được ăn lúa mới và thực hiện các công việc lớn như làm nhà, chuyển làng...
CHƯƠNG II: SỰ THAY ĐỔI VỀ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA HIỆN NAY CỦA NGƯỜI CƠ HO TRÊN TẤT CẢ CÁC LĨNH VỰC: KINH TẾ, XÃ HỘI, SINH HOẠT, TÍN NGƯỠNG, VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VÀ LỄ HỘI.
Ngày nay, các dân tộc bản địa Nam Tây Nguyên nói chung và người Cơ Ho nói riêng đang đối mặt với một thực tế khá khắc nghiệt: Nhiều dòng văn hóa từ bên ngoài xâm nhập vào cộng đồng và đang diễn ra theo hai xu thế tích cực và tiêu cực. Điều đáng nói với xu thế tiêu cực, những nét văn hóa cổ truyền có giá trị cao dần bị mai một. Điều đáng nói là trước hết, chính cộng đồng các dân tộc này ý thức được vấn đề để giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống mà ông cha mình để lại. Và kế tiếp cả cộng đồng các dân tộc cùng chung sống trên mảnh đất Nam Tây Nguyên này phải trân trọng và cùng tham gia gìn giữ những giá trị văn hóa không còn là của riêng của cộng đồng các dân tộc thiểu số bản địa tại đây. Dòng văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số bản địa ở Tây Nguyên với hai đại diện là Cơ Ho và Churu mặc dầu đã được thiết lập về không gian địa lý nhưng không “đóng băng” trong sự cô độc vĩnh viễn mà ngược lại nó còn được tiếp nhận các dòng văn hóa phi vật thể của cộng đồng người Pháp, người Kinh và các dân tộc thiểu số ở phía Bắc du nhập vào để làm nên hiện tượng “đóng băng trên biên”. Trong thời kỳ hiện nay sự biến đổi và thay đổi về mọi mặt của đời sống xã hội nó tác động đến mọi lĩnh vực: Kinh tế - văn hóa – xã hội.Văn hóa truyền thống của một tộc người chỉ là một khía cạnh nhỏ của đời sống xã hội, trong đó thay đổi về truyền thống văn hóa của người Cơ Ho là một ví dụ điển hình. Dưới áp lực của xu thế toàn cầu hóa và thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng và Nhà nước là vấn đề cấp bách mà Đảng và Nhà nước đang đặt ra. Sự thay đổi có tính bước ngoặt này đòi hỏi chúng ta phải có những hướng đi cụ thể và thiết thực chứ không phải thay đổi mang tính triệt để và sâu sắc, chúng ta phải là những người mang tính chủ động nên chúng ta phải có những định hướng là chúng ta vừa thay đổi, vừa tiếp thu có chọn lọc để phù hợp với thời cuộc và phù hợp với quy luật phát triển xã hội của loài người. Chúng ta không nên áp dụng một cách máy móc, mà với cương vị là một chủ thể của một nền văn hóa thì chúng ta phải chủ động tiếp cận và tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc anh em và những tinh hoa văn hóa của loài người. Bên cạnh việc tiếp nhận đó thì chúng ta cung phải biết loại bỏ những hủ tục, những tàn dư văn hóa không phù hợp với thời đại, phản văn hóa và nó có thể là bước cản của sự phát triển nền văn hóa của một tộc người và của cả dân tộc Việt Nam nói chung.
Đảng ta đã đưa ra những đường lối, chính sách về văn hóa. Các Hội nghị TW đưa ra các quan niệm về văn hóa như sau: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nhiều Nghị quyết TW tiếp theo đã xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Qua nhiều lần xác định thì hiện nay Đảng ta vẫn xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
+ Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội theo Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhăm mục tiêu tất cả vì con người. Tiên tiến không chỉ về nội dung mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
+ Đậm đà bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngạn năm dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết c