Công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian nào đó thì nhận
được số tiền trả công nhất định. Tiền trả công đó gọi là tiền lương. Số lượng
tiền lương nhiều hay ít được xác định theo thời gian lao động hoặc lượng
sản phẩm sản xuất ra. Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng rằng, tiền
lương là giá cả lao động.
Sự thật thì tiền lương không phải là giá trị hay giá cả của lao động. V ì
lao động không phải là hàng hoá và không thể là đối tượng mua bán. Sở dĩ
như vậy là vì:
Thứ nhất: nếu lao động là hàng hoá thì nó phải có trước, phải được
vật hoá trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền để cho lao động có thể “vật
hoá” được là phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu
sản xuất thì họ sẽ bán hàng hoá do mình sản xuất, chứ không bán “lao
động”. Người công nhân không thể bán cái mình không có.
Thứ hai: việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai
mâu thuẫn về lý luận sau đây: Nếu lao động là hàng hoá và được trao đổi
ngang giá, thì nhà tư bản không thu được giá trị thặng dư, điều này phủ nhận
sự tồn tại thực tế của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản. Còn
nếu hàng hoá được trao đổi không ngang giá để có giá trị thặng dư cho nhà
tư bản, thì sẽ phủ nhận quy luật giá trị.
Thứ ba: nếu lao động là hàng hoá thì hàng hoá đó cũng phải có giá trị.
Nhưng thước đo nội tại của giá trị là lao động. Như vậy, giá trị của lao động
đo bằng lao động. Đó là một điều luẩn quẩn vô nghĩa.
15 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 11926 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích bản chất và các hình thức tiền lương cơ bản trong chủ nghĩa tư bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG……………..
Tiểu luận
PHÂN TÍCH BẢN CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC
TIỀN LƯƠNG CƠ BẢN TRONG CNTB
2
I. PHÂN TÍCH BẢN CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC TIỀN
LƯƠNG CƠ BẢN TRONG CNTB
1. Bản chất tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản
Công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian nào đó thì nhận
được số tiền trả công nhất định. Tiền trả công đó gọi là tiền lương. Số lượng
tiền lương nhiều hay ít được xác định theo thời gian lao động hoặc lượng
sản phẩm sản xuất ra. Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng rằng, tiền
lương là giá cả lao động.
Sự thật thì tiền lương không phải là giá trị hay giá cả của lao động. Vì
lao động không phải là hàng hoá và không thể là đối tượng mua bán. Sở dĩ
như vậy là vì:
Thứ nhất: nếu lao động là hàng hoá thì nó phải có trước, phải được
vật hoá trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền để cho lao động có thể “vật
hoá” được là phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu
sản xuất thì họ sẽ bán hàng hoá do mình sản xuất, chứ không bán “lao
động”. Người công nhân không thể bán cái mình không có.
Thứ hai: việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai
mâu thuẫn về lý luận sau đây: Nếu lao động là hàng hoá và được trao đổi
ngang giá, thì nhà tư bản không thu được giá trị thặng dư, điều này phủ nhận
sự tồn tại thực tế của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản. Còn
nếu hàng hoá được trao đổi không ngang giá để có giá trị thặng dư cho nhà
tư bản, thì sẽ phủ nhận quy luật giá trị.
Thứ ba: nếu lao động là hàng hoá thì hàng hoá đó cũng phải có giá trị.
Nhưng thước đo nội tại của giá trị là lao động. Như vậy, giá trị của lao động
đo bằng lao động. Đó là một điều luẩn quẩn vô nghĩa.
3
Vì thế, lao động không phải là hàng hoá, cái mà công nhân bán và nhà
tư bản mua không phải là lao động mà chính là sức lao động. Do đó, tiền
lương mà nhà tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao động. Vậy bản
chất của tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản là biểu hiện ra bề ngoài như là giá
trị hay giá cả của lao động. Khi sức lao động trở thành hàng hóa thì giá trị
của nó dược đo bằng lao động cụ thể hiện và nó như là một sản phẩm xã hội
cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Chúng ta cần phải phân
biệt tiền công danh nghĩa và tiền công đích thực.
Tiền lương danh nghĩa là tổng số tiền mà người công nhân nhận được
do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Nó là giá cả sức lao động. Nó
tăng giảm theo sự biến động trong quan hệ cung – cầu về hàng hoá sức lao
động trên thị trường. Đối với người công nhân, điều quan trọng không chỉ ở
tổng số tiền nhận được dưới hình thức tiền lương mà còn ở chỗ có thể mua
được gì bằng tiền lương đó, điều đó phụ thuộc vào giá cả vật phẩm tiêu dùng
và dịch vụ.
Tiền lương thực tế là số lượng hàng hoá và dịch vụ mà công nhân có
thể thu được bằng tiền lương danh nghĩa. Rõ ràng, nếu điều kiện khác không
thay đổi, tiền lương thực tế phụ thuộc theo tỷ lệ thuận vào đại lượng tiền
lương danh nghĩa và phụ thuộc theo tỷ lệ nghịch với mức giá cả vật phẩm
tiêu dùng và dịch vụ.
Như ta đã biết trong các xã hội có giai cấp bóc lột, phần thời gian lao
động thặng dư là thuộc về giai cấp bóc lột. Nhưng nhìn bề ngoài ,thì ở mỗi
xã hội lại một khác. Dưới chế độ nô lệ, hầu như tất cả lao động của người
nô lệ, kể cả lao động cần thiết và lao động thặng dư đều không được trả
công. Dưới chế độ phong kiến, lao động cần thiết mà người nông nô bỏ ra
trên mảnh đất của mình và lao động thặng dư mà người ấy bỏ ra trên ruộng
đất của địa chủ, có ranh giới rõ rệt về thời gian và không gian. Còn dưới chế
4
độ tư bản chủ nghĩa, thì toàn bộ lao động của công nhân tưởng như được trả
công tất cả. Quan hệ hàng hóa trong xã hội tư bản đã che đậy quan hệ bóc
lột tư bản chủ nghĩa.
Sở dĩ biểu hiện bề ngoài của tiền lương đã che dấu bản chất của nó là
do những nguyên nhân sau:
Một là, việc mua bán sức lao động là mua bán chịu. Hơn nữa, đặc
điểm của hàng hoá - sức lao động không bao giời tách khỏi người bán, nó
chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người mua, tức là
lao động cho nhà tư bản, do đó nhìn bề ngoài chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị
cho lao động.
Hai là, đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương
tiện để có tiền sinh sống, do đó, bản thân công nhân cũng tưởng rằng mình
bán lao động. Còn đối với nhà tư bản việc bỏ tìên ra để có lao động, nên
cũng nghĩ rằng cái mà họ mua là lao động.
Ba là, do cách thức trả lương. Số lượng của tiền lương phụ thuộc vào
thời gian lao động hoặc sản phẩm sản xuất ra, điều đó khiến người ta lầm
tưởng rằng tiền lương là giá cả lao động.
Tiền lương che đậy mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành
thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành lao động
được trả công và lao động không được trả công, do đó tiền lương che đậy
bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
2. Các hình thức cơ bản của tiền lương
Tiền lương có hai hình thức cơ bản là: tiền lương tính theo thời gian
và tiền lương tính theo sản phẩm.
5
a. Tiền lương tính theo thời gian
Tiền lương tính theo thời gian là hình thức tiền lương mà số lượng
của nó phụ thuộc vào thời gian lao động của công nhân (giờ, ngày, tuần,
tháng).
Cần phân biệt tổng số tiền lương của một ngày, một tuần, một tháng
với tiền trả công cho một giờ lao động. Ví dụ một công nhân một ngày làm
việc 8 giờ, nhận 80 đồng như vậy mỗi giờ được trả 10 đồng. Nhưng nếu nhà
tư bản bắt làm 10 giờ và trả 90 đồng, thì như vậy là giá cả một giờ lao động
đã giảm từ 10 đồng xuống 9 đồng.
Giá cả của một giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền lương
tính theo thời gian. Tiền lương ngày và lương tuần chưa nói rõ được mức
tiền công đó thấp hay cao, vì còn tuỳ thuộc theo ngày lao động dài hay ngắn.
Do đó, muốn đánh giá đúng mức tiền lương không chỉ căn cứ vào lượng
tiền, mà còn căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động.
Thực hiện chế độ tiền lương theo thời gian, nhà tư bản có thể không
thay đổi lương ngày, lương tuần, mà vẫn hạ thấp được giá cả lao dộng do
kéo dài ngày lao động hoặc tăng cường độ lao động. Cũng ngày lao động 8
giờ, nhưng nếu nhà tư bản cho tăng tốc độ hoạt động của máy móc lên gấp
rưỡi, thì 8 giờ lao động của công nhân thực tế bằng 12 giờ, nhưng tiền lương
thì vẫn là lương ngày như cũ hoặc có tăng, nhưng tăng chậm hơn mức tăng
của cường độ lao động.
Hình thức trả lương theo thời gian có lợi cho nhà tư bản ở chỗ: khi
hàng hóa tiêu thụ dễ dàng, thì nhà tư bản kéo dài thêm ngày lao động, dù
cho lương ngày của công nhân có được tăng lên, nhưng hàng hóa sản xuất
cũng được nhiều hơn do đó giá trị thặng dư cũng sẽ nhiều hơn. Ngược lại,
6
nếu tình hình thị trường không tốt, thì nhà tư bản rút ngắn ngày lao động, trả
công theo giờ. Như vậy trong các trường hợp này, tiền lương giảm xuống rất
nhiều. Như vậy, công nhân không những bị thiệt thòi khi ngày lao động bị
kéo dài quá độ, mà còn bị thiệt thòi cả những khi phải làm việc ít giờ hơn.
Ở Mỹ trong những năm gần đây, 5-6% tổng số công nhân làm việc
mỗi tuần từ 1 đến 14 giờ, 3-4% từ 22-29 giờ, 3-4% từ 30-34 giờ, 1/5 làm
việc không đủ ngày.
b. Tiền lương tính theo sản phẩm
Tiền lương tính theo sản phẩm là hình thức tiền lương mà số lượng
của nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra hoặc
số lượng công việc đã hoàn thành trong một thời gian nhất định.
Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định gọi là đơn
giá tiền công. Đơn giá tiền công là giá trả công cho mỗi đơn vị sản phẩm đã
sản xuất ra theo giá biểu nhất định. Khi qui định đơn giá của sản phẩm, nhà
tư bản đã tính đến tiền lương theo thời gian của công nhân trong một số
ngày và số lượng sản phẩm mà công nhân làm ra trong một ngày(thường lấy
mức sản xuất làm tiêu chuẩn). Ví dụ: công nhân ở xưởng A nhận lương ngày
trung bình là 20 đồng và làm được 10 sản phẩm một ngày; nếu áp dụng chế
độ tiền lương theo sản phẩm, thì nhà tư bản sẽ qui định đơn giá một sản
phẩm là 2 đồng. Do đó, về thực chất, đơn giá tiền lương là tiền lương trả cho
một thời gian cần thiết nhất định để sản xuất một sản phẩm. Vì thế, tiền
lương tính theo sản phẩm chỉ là hình thức chuyển hoá của tiền lương tính
theo thời gian.
Hình thức tiền lương theo sản phẩm càng che giấu và xuyên tạc bản
chất của tiền lương hơn so với hình thức tiền lương tính theo thời gian. Công
nhân làm được nhiều sản phẩm thì càng nhận được nhiều tiền lương, điều đó
7
khiến người ta lầm tưởng là lao động đã được trả công đầy đủ. Việc thực
hiện hình thức tiền lương tính theo sản phẩm một mặt làm cho nhà tư bản dễ
dàng kiểm soát công nhân; một khác đẻ ra sự cạnh tranh giữa công nhân,
kích thích công nhân phải lao động tích cực nâng cao cường độ lao động, tạo
ra nhiều sản phẩm để nhận được tiền công cao hơn. Công nhân phải đem hết
sức mình, đua nhau làm ngày, làm đêm, tăng cường độ lao động, mong được
nhiều lương hơn chút ít. Nhưng khi số công nhân đã đạt đến mức cường độ
lao động mới cao hơn, thì nhà tư bản lại hạ thấp đơn giá xuống. Kết quả là
công nhân làm việc càng nhiều, thì tiền lương càng giảm xuống. Mác viết: “
Để giữ vững khối lượng tiền công của mình, người công nhân tìm cách làm
việc nhiều hơn, hoặc làm thêm giờ, hoặc sản xuất nhiều hơn trong cùng một
giờ…Kết quả là anh ta càng làm việc nhiều thì càng lĩnh được ít tiền công.”
Vì vậy, chế độ tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản thường dẫn đến tình
trạng lao động khẩn trương quá mức, làm kiệt sức người lao động.
Về mặt lịch sử, tiền lương tình theo thời gian được áp dụng rộng rãi
trong giai đoạn đầu phát triển của chủ nghĩa tư bản, còn ở giai đoạn sau thì
tiền lương tính theo sản phẩm được áp dụng rộng rãi hơn.
Hiện nay cùng với sự phát triển của cơ khí hoá và tự động hoá, tiền
lương theo thời gian lại thành phổ biến. Ở Mỹ, tỷ lệ công nhân được trả
lương theo sản phẩm giảm xuống: trong ngành chế tạo máy móc từ 32%
năm 1926 xuống 25% năm 1952, trong ngành hoá chất và dược phẩm từ
35% năm 1926 xuống 3-16% năm 1957, trong ngành nướng bánh mỳ từ
37% năm 1926 xuống 0,5% năm 1958.Trong những ngành còn nhiều lao
động thủ công, thì tỷ lệ công nhân được trả lương theo sản phẩm cao hơn
nhiều: trong ngành làm đường và may mặc có tới gần 2/3 công nhân được
trả lương theo sản phẩm.
8
II. Ý NGHĨA THỰC TIỄN
Từ 1993 đến nay, Nhà nước đã đẩy mạnh cải cách chính sách tiền
lương, nhờ đó mức lương tối thiểu được pháp luật hóa và nâng cao theo thị
trường. Thu nhập của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp được
cải thiện. Tuy nhiên, vấn đề giá cả hàng hóa sức lao động ở Việt Nam vẫn
còn nhiều hạn chế, bất cập, tác động trực tiếp đến đời sống của người lao
động và ảnh hưởng lan toả đến mọi mặt của đời sống xã hội. Do vậy, chúng
ta hãy cùng nhau nhìn lại thực trạng giá cả hàng hóa sức lao động thời gian
qua để từ đó có giải pháp hữu hiệu cho thời gian tiếp theo, tạo động lực để
thị trường này phát triển vững mạnh.
1.Thực trạng chính sách tiền lương, tiền công thời gian qua
a. Về chính sách tiền lương tối thiểu:
Tiền lương tối thiểu được xác định theo nhu cầu tối thiểu, khả năng
nền kinh tế, tiền lương trên thị trường sức lao động, chỉ số giá sinh hoạt. Nó
làm căn cứ để tính các mức lương trong hệ thống thang lương, bảng lương,
phụ cấp lương trong khu vực nhà nước, tính mức lương ghi trong hợp đồng
lao động và thực hiện chế độ khác cho người lao động theo quy định của
pháp luật. Trong Điều 56 của Bộ luật Lao động ghi: Mức tiền lương tối thiểu
được ấn định theo giá sinh hoạt, đảm bảo cho người lao động làm công việc
giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động
giản đơn và một phần tiền lương tái sản xuất sức lao động mở rộng và được
dùng làm căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động khác.
Theo nguyên tắc của C.Mác, tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức
lao động, mức chấp nhận tối thiểu của người lao động: “chi phí sản xuất của
sức lao động giản đơn quy thành chi phí sinh hoạt của người công nhân và
9
chi phí để tiếp tục duy trì nòi giống đó là tiền công. Tiền công được định
như vậy là tiền công tối thiểu”. Tức là giới hạn thấp nhất của tiền lương phải
đảm bảo khôi phục lại sức lao động của con người. Và tiền lương cũng được
quyết định bởi những quy luật quyết định giá cả của tất cả các hàng hoá
khác…, bởi quan hệ của cung đối với cầu, của cầu với cung. Đảng và Nhà
nước ta luôn quan tâm, cải cách và đổi mới chính sách tiền lương cho phù
hợp sự phát triển của nền kinh tế. Từ khi ban hành Nghị định 235/HĐBT
tháng 9/1985 về cải cách tiền lương trong cán bộ công chức, đến đầu năm
1993, Chính phủ đã 21 lần điều chỉnh tiền lương. Nên từ 1993 đến nay,
chính sách tiền lương đã có sự thay đổi theo hướng tích cực, khắc phục
những hạn chế cơ bản của chính sách tiền lương theo Nghị định 235/HĐBT
(1985) tạo sự hài hòa hơn về lợi ích giữa người lao động với người sử dụng
lao động là Nhà nước, với 4 nội dung cơ bản: Mức lương tối thiểu; quan hệ
tiền lương giữa các khu vực; các chế độ phụ cấp tiền lương và cơ chế quản
lý tiền lương, thu nhập, trong đó xác định mức tiền công, tiền lương tối thiểu
là căn cứ nền tảng để xác định giá cả sức lao động. Hình thành bốn hệ thống
thang, bảng lương riêng cho 4 khu vực là:
Tiền lương của khu vực sản xuất kinh doanh của Nhà nước căn cứ trên
năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh để định ra mức tiền
lương, tiền thưởng tương đối hợp lý, đồng thời cho phép các doanh
nghiệp tuỳ theo kết quả sản xuất kinh doanh có thể giải quyết tiền lương
tối thiểu gấp 1,5 lần mức quy định chung.
Tiền lương của lực lượng vũ trang được tiền tệ hóa.
Tiền lương của khu vực hành chính, sự nghiệp được thiết kế theo ngạch
công chức phù hợp với chức danh và tiêu chuẩn chuyên môn, mỗi ngạch
lại có nhiều bậc để khuyến khích công chức phấn đấu vươn lên.
10
Tiền lương của khu vực dân cư và bầu cử đều thống nhất, mỗi chức vụ
chỉ có một mức lương, nếu được tái cử thì có phụ cấp thâm niên tái cử.
Mức lương tối thiểu luôn được điều chỉnh theo sự biến động của giá trên
thị trường, cụ thể: mức tiền lương tối thiểu áp dụng chung từ 01/01/1993 là
120.000 đồng/tháng/người; từ 01/07/1997 là 144.000 đồng/tháng; từ
01/01/2000 là 180.000 đồng/tháng; từ 01/01/2001 là 210.000 đồng/tháng; từ
01/01/2002 là 290.000 đồng/tháng. Theo Nghị định số 118/2005/NĐ-CP
ngày 15/09/2005 của Chính phủ là 350.000 đồng/tháng (từ ngày
01/10/2005) và từ 01/10/2006 theo Nghị định 94/2006/NĐ-CP là 450.000
đồng/tháng. Từ ngày 01/01/2008 đã điều chỉnh từ 450.000 đồng lên 540.000
đồng/tháng theo Nghị định 166/2007/NĐ-CP ngày 16/11/2007 quy định
mức lương tối thiểu chung. Từ ngày 01/05/2010 theo Nghị định
28/2010/NĐ-CP là 730.000 đồng/tháng. Từ ngày 01/05/2011 theo Nghị định
22/2011/NĐ-CP là 830.000 đồng/tháng.
b) Về tiền lương tối thiểu trong doanh nghiệp:
Đối với các loại hình doanh nghiệp, tiền lương tối thiểu hiện nay được
quy định là khác nhau. Chính sách tiền lương đối với các doanh nghiệp được
quy định tại Bộ luật Lao động và các văn bản dưới luật như: Nghị định số
114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tiền lương; Nghị
định số 205/2004/NĐ-CP, Nghị định số 206/2004/NĐ-CP, Nghị định số
207/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ, Nghị định 94/2006/NĐ-
CP ngày 07/09/2006, Nghị định 03/2006/NĐ-CP ngày 06/01/2006 của
Chính phủ, Nghị định 167/2007/NĐ-CP ngày 16/11/2007, Nghị định
168/2007/NĐ-CP ngày 16/11/2007, Nghị định 110/2008/NĐ-CP ngày
10/10/2008, Nghị định 111/2008/NĐ-CP ngày 10/10/2008, Nghị định
11
107/2010/NĐ-CP ngày 29/10/2010, Nghị định 108/2010/NĐ-CP ngày
29/10/2010, Nghị định 70/2011/NĐ-CP ngày 22/08/2011 và các Thông tư
hướng dẫn của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội… Cụ thể:
Đối với doanh nghiệp nhà nước, áp dụng mức thấp nhất bằng tiền lương
tối thiểu chung và cao nhất bằng 2,7 lần mức lương tối thiểu chung, cụ
thể là từ 830.000 đến 2.241.000 đồng/tháng theo Nghị định 22/2011/NĐ-
CP ngày 04/04/2011 của Chính phủ.
Ngày 22/8/2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Nghị định
70/2011/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu theo vùng đối với người
lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang
trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan tổ chức có thuê mướn lao động.
Theo Nghị định này, mức lương tối thiểu áp dụng cho vùng 1 là 2 triệu
đồng/tháng; vùng 2 là 1,78 triệu đồng/tháng; vùng 3 là 1,55 triệu
đồng/tháng; vùng 4 là 1,5 triệu đồng/tháng. Các mức lương này được áp
dụng chung cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài FDI thay vì riêng rẽ cho từng khu vực như trước đây. Trước
đó, theo Nghị định 108/2010/NĐ-CP, mức lương tối thiểu trong các
doanh nghiệp trong nước là: vùng 1 (gồm các quận của Hà Nội,
TPHCM): 1,350 triệu đồng/tháng; vùng 2: 1,2 triệu đồng/tháng; vùng 3:
1,05 triệu đồng/tháng; vùng 4: 830.000 đồng/tháng. Theo Nghị định
107/2010/NĐ-CP, lương tối thiểu tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài theo vùng như sau: vùng 1: 1,55 triệu đồng/tháng; vùng 2:
1,35 triệu đồng/tháng ; vùng 3: 1,17 triệu đồng/tháng; vùng 4: 1,1 triệu
đồng/tháng.
Như vậy, chính sách tiền lương trong doanh nghiệp đã có sự điều chỉnh
để đáp ứng với những biến động trên thị trường, nhằm đảm bảo cuộc sống
12
tối thiểu cho người lao động dưới tác động của các yếu tố chỉ số giá sinh
hoạt, điều kiện lao động…
2. Những hạn chế, bất cập trong chính sách tiền lương, tiền công thời
gian qua
Tiền lương chưa phản ánh đúng giá cả sức lao động, chưa thực sự gắn
với mối quan hệ cung cầu lao động trên thị trường, tốc độ tăng tiền lương
nhỏ hơn tốc độ tăng của năng suất lao động. Mức lương tối thiểu còn
thấp chưa theo kịp với yêu cầu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao
động và sự phát triển kinh tế – xã hội.
Chính sách tiền lương chưa được đảm bảo cho người lao động, đặc biệt
là cán bộ, công chức, viên chức sống được bằng tiền lương ở mức trung
bình khá trong xã hội; chưa khuyến khích và thu hút được người tài,
người làm việc giỏi. Mức lương trung bình của công chức còn thấp so
với mức thu nhập trung bình của lao động xã hội. Do vậy đã gây nên sự
biến động, dịch chuyển lao động lớn và tỉ lệ lao động bỏ việc, nghỉ việc
ngày một tăng.
Hệ thống tiền lương còn quá nhiều thang, bảng lương và khoảng cách
giữa các bậc lương nhỏ, tiền lương danh nghĩa tăng nhưng tiền lương
thực tế lại giảm sút. Đối với mức lương, bậc lương giữa các loại cán bộ,
công chức một số chức danh trong hệ thống chính trị ( Đảng, Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể ) đã bộc lộ những bất hợp lý.
Chế độ tiền lương chủ yếu vẫn dựa trên hệ thống phân phối theo việc,
gắn cứng tiền lương với hệ số lương tối thiểu như nhau dù có trình độ
khác nhau, nên không tạo được động lực làm việc hiệu quả. Đồng thời
chưa có sự phân biệt giữa tiền lương tối thiểu của cán bộ công chức
hưởng lương từ ngân sách nhà nước với tiền lương tối thiểu của lao động
trong khu vực hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra những tác động cản
13
trở, sự chênh lệch về thu nhập giữa các đơn vị có nguồn thu và không có
nguồn thu. Các chế độ phụ cấp, bảo hiểm xã hội, an toàn… còn chưa
được coi trọng.
Có sự chênh lệch khá lớn về mặt bằng tiền lương, thu nhập giữa các
vùng, khu vực thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa
lao động có kĩ thuật, có tay nghề với lao động phổ thông giữa các tỉnh
thuộc vùng kinh tế trọng điểm và các địa phương khác. Sự phân hoá giàu
nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp
dân cư tăng nhanh; khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa
các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng doãng ra, nhất là giữa
nông thôn và thành thị. Tỷ lệ nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số cao hơn nhiều m