Tiểu luận Phân tích các giai đoạn vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Ý nghĩa nghiên cứu

Để phân tích các giai đoạn vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp, chúng ta tìm hiểu quá trình lưu thông của tư bản. Nghiên cứu tuần hoàn của tư bản chính là nghiên cứu lưu thông của tư bản theo nghĩa rộng. Quá trình vận động của tư bản là quá trình vận động không ngừng diễn ra thường xuyên và lặp đi lặp lại và tư bản ngày càng tăng lên và thu được giá trị thặng dư. Quá trình vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp có ý nghĩa rất to lớn đối với việc quản lý doanh nghiệp của nước ta hiện nay. Chúng ta đi từ một cơ chế quản lý quan liêu bao cấp sang cơ chế quản lý mới đó là cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta không tránh khỏi những vướng mắc, những sai phạm. Do đó, chúng ta rất cần một cơ sở lý luận để định hướng. Sự vận động tuần hoàn của tư bản rất cần thiết, vì vậy chúng ta phải nghiên cứu phân tích thật kỹ, thật tốt để ứng dụng vào thực trạng của nền kinh tế chúng ta hiện nay. Trong quá trình tìm hiểu và trình bày đề tài, nhóm chúng em mặc dù đã cố gắng song không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Chúng em rất mong được sự nhận xét, đánh giá của Thầy để đề tài chúng em tìm hiểu được hoàn thiện hơn.

pdf15 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4342 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích các giai đoạn vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Ý nghĩa nghiên cứu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN: 18 Phân tích các giai đoạn vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Ý nghĩa nghiên cứu NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Nhóm 27 Trang 1 MỤC LỤC Trang I/ Lời nói đầu 2 II/ Nội dung trình bày 3 A. Cơ sở lý luận 1. Tuần hoàn tư bản 3 2. Điều kiện để tư bản tuần hoàn liên tục 3 3. Đặc điểm tuần hoàn của tư bản 3 4. Các giai đoạn tuần hoàn của tư bản 4 B. Cơ sở nghiên cứu 1. Ý nghĩa thực tiễn khi nghiên cứu lý thuyết tuần hoàn của tư bản đối với việc quản lý các doanh nghiệp ở nước ta khi bước vào nền kinh tế thi trường định hướng XHCN 8 III/ Kết luận 12 IV/ Tài liệu tham khảo 13 V/ Nhận xét và đánh giá của giáo viên 14 NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Nhóm 27 Trang 2 I. LỜI NÓI ĐẦU Để phân tích các giai đoạn vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp, chúng ta tìm hiểu quá trình lưu thông của tư bản. Nghiên cứu tuần hoàn của tư bản chính là nghiên cứu lưu thông của tư bản theo nghĩa rộng. Quá trình vận động của tư bản là quá trình vận động không ngừng diễn ra thường xuyên và lặp đi lặp lại và tư bản ngày càng tăng lên và thu được giá trị thặng dư. Quá trình vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp có ý nghĩa rất to lớn đối với việc quản lý doanh nghiệp của nước ta hiện nay. Chúng ta đi từ một cơ chế quản lý quan liêu bao cấp sang cơ chế quản lý mới đó là cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta không tránh khỏi những vướng mắc, những sai phạm. Do đó, chúng ta rất cần một cơ sở lý luận để định hướng. Sự vận động tuần hoàn của tư bản rất cần thiết, vì vậy chúng ta phải nghiên cứu phân tích thật kỹ, thật tốt để ứng dụng vào thực trạng của nền kinh tế chúng ta hiện nay. Trong quá trình tìm hiểu và trình bày đề tài, nhóm chúng em mặc dù đã cố gắng song không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Chúng em rất mong được sự nhận xét, đánh giá của Thầy để đề tài chúng em tìm hiểu được hoàn thiện hơn. Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn. NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Nhóm 27 Trang 3 II. NỘI DUNG TRÌNH BÀY A. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. TUẦN HOÀN TƯ BẢN Theo quan điểm của Mác – Lênin, trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tư bản luôn luôn vận động và trong quá trình vận động, nó lớn lên không ngừng. Để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh nhà tư bản không được để tư bản nhàn rỗi, mà phải sử dụng triệt để dưới nhiều hình thức, chức năng khác nhau. Tư bản phải được tuần hoàn và chu chuyển liên tục, hợp lý để kết quả sản xuất kinh doanh thu được lượng tư bản lớn hơn lượng đầu tư ban đầu. “Tuần hoàn của tư bản là sự vận động của tư bản trải qua 3 giai đoạn, lần lượt mang lấy 3 hình thái là tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa, để rồi quay trở lại hình thái ban đầu, với giá trị được bảo tồn và tăng lên.” 2. ĐIỀU KIỆN ĐỂ TƯ BẢN TUẦN HOÀN LIÊN TỤC Tuần hoàn của tư bản chỉ diễn ra trôi chảy và liên tục nếu thỏa mãn được hai điều kiện:  M ột là, các giai đoạn vận động tuần hoàn phải được diễn ra liên tục, không bị gián đoạn  Hai là, tại cùng một thời điểm tư bản phải đồng thời tồn tại ở cả ba hình thái và được chuyển hóa đều đặn 3. ĐẶC ĐIỂM TUẦN HOÀN CỦA TƯ BẢN Qua quá trình tuần hoàn, với tư cách là một giá trị, tư bản đã trải qua một chuỗi biến hoá hình thái có quan hệ với nhau, quy định lẫn nhau. Trong các giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất. Phù hợp với ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản có ba hình thái của tư bản công nghiệp:  Giai đoạn 1: Tư bản tiền tệ  Giai đoạn 2: Tư bản sản xuất NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Nhóm 27 Trang 4  Giai đoạn 3: Tư bản hàng hóa. Để tái sản xuất diễn ra một cách bình thường thì tư bản xã hội cũng như từng tư bản cá biệt đều tồn tại cùng một lúc dưới cả ba hình thái. Tái sản xuất của mọi doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa trong cùng một lúc đều gồm có:  Tư bản tiền tệ chi ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động  Tư bản sản xuất dưới hình thái tư liệu sản xuất và sức lao động đang hoạt động  Tư bản hàng hóa sắp đưa ra bán. Đồng thời, trong lúc một bộ phận của tư bản là tư bản tiền tệ đang biến thành tư bản sản xuất, thì một bộ phận khác là tư bản sản xuất đang biến thành tư bản hàng hóa và bộ phận thứ ba là tư bản hàng hóa đang biến thành tư bản tiền tệ. Mỗi bộ phận ấy đều lần lượt mang lấy và trút bỏ một trong ba hình thái đó. Ba hình thái của tư bản không phải là ba loại tư bản khác nhau, mà là ba hình thái của một tư bản công nghiệp biểu hiện trong quá trình vận động của nó. Song cũng trong quá trình vận động ấy đã chứa đựng khả năng tách rời của ba hình thái tư bản. Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, khả năng tách rời đó đã làm xuất hiện tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay, hình thành các tập đoàn khác nhau trong giai cấp tư bản: chủ công nghiệp, nhà buôn, chủ ngân hàng... chia nhau giá trị thặng dư. 4. CÁC GIAI ĐOẠN TUẦN HOÀN CỦA TƯ BẢN a. Giai đoạn 1: Giai đoạn lưu thông Giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái là tư bản tiền t ệ, nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách người mua, thực hiện hành vi T–H tức là biến tiền tệ thành hàng hoá. Còn đối với người bán thì đó là biến hàng thành tiền, T–H ở đây chỉ là hành vi lưu thông hàng hoá thông thường, tiền tệ được sử dụng làm phương tiện mua như mọi số tiền khác trong lưu thông. Tiền tuy làm phương tiện mua nhưng phải mua được hàng hóa sức lao động và tư liệu sản xuất nhằm mục đích sản xuất giá trị thặng dư. Hành vi T–H không chỉ đơn thuần biểu thị việc chuyển hóa một món tiền thành hàng hóa, mà nó đã bước vào giai đoạn vận động tuần hoàn của tư bản, nếu nhìn vào nội dung vật chất của việc mua bán nào đó, thì sẽ thấy tính chất tư bản chủ nghĩa của nó. NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Nhóm 27 Trang 5 Hàng hóa mua bán là những loại hàng hoá nhất định, nó là những nhân tố của sản xuất, việc mua tư liệu sản xuất và sức lao động không những p hải phù hợp với loại sản phẩm cần chế tạo, mà phải tỉ lệ thích hợp với nhau về số lượng. Tỉ lệ đó nhằm bảo đảm cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường và nhất là để sử dụng triệt để toàn bộ thời gian lao động của công nhân. Nếu thiếu tư liệu sản xuất thì công nhân không đủ việc làm, quyền sử dụng lao động thặng dư sẽ trở thành vô ích đối với nhà tư bản. Ngược lại, nếu thiếu công nhân thì t ư liệu sản xuất cũng không được tận dụng hết để tạo ra sản phẩm dẫn đến tồn đọng tư liệu sản xuất. Do đó, lòng thèm khát lao động tạo ra giá trị thặng dư của nhà tư bản cũng không được thỏa mãn. Quá trình mua bán đó thể hiện như sau: SLĐ T – H TLSXs Rõ ràng, trong quá trình này hành vi T–SLĐ (việc mua sức lao động) là y ếu t ố đặc trưng khiến tiền xuất hiện ngay từ đầu với t ư cách là tư bản. Hành vi T–TLSX chỉ cần thiết để sức lao động đã mua có thể hoạt động được, song T- Slđ được coi là nét đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải do tính chất tiền tệ của mối quan hệ đó. Tiền đã xuất hiện rất sớm để mua cái được gọi là sự phục vụ, nhưng tiền lúc ấy vẫn không biến thành tư bản tiền tệ. Nét đặc trưng không phải ở chỗ người ta có thể mua sức lao động bằng tiền, mà sức lao động biến thành hàng hóa. Nhà tư bản có tiền, công nhân có sức lao động, hai bên mua bán với nhau. Đây là một việc mua bán, một quan hệ hàng hóa – tiền tệ, những người mua là nhà tư bản – kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất và người bán là người lao động làm thuê bị tách rời hoàn toàn với tư liệu sản xuất và tư liệu s inh hoạt trở thành tài sản của người không lao động. Vậy mối quan hệ tư bản chủ nghĩa không phải do bản chất của tiền tệ gây nên mà là do quá trình tách rời đó gây nên, chính sự tồn tại của quan hệ tư bản chủ nghĩa mới làm cho chức năng của tiền tệ là công cụ của lưu thông hàng hóa nói chung biến thành chức năng của tư bản. Do đó, trên cơ sở tư liệu sản xuất và sức lao động đã hoàn toàn tách rời nhau, quan hệ giai cấp giữa nhà tư bản và người làm thuê đã có rồi, thì tiền của nhà tư bản ứng ra để thực hiện hành vi : SLĐ T – H NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Nhóm 27 Trang 6 TLSX Hoàn thành quá trình này, giá trị tư bản đã trút bỏ hình thái tiền tệ và mang hình thái các yếu tố sản xuất TBCN: tư liệu sản xuất và sức lao động, t ức là hình t hái tư bản sản xuất. Như vậy, kết quả của giai đoạn I là tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất. b. Giai đoạn 2: Giai đoạn sản xuất Sau khi mua được hàng hoá ( tư liệu sản xuất và sức lao động) thì tư bản đã trút bỏ hình thức tiền tệ mà mang hình thức hiện vật. Với hình thái hiện vật đó, nó không thể tiếp tục lưu thông được. Nhà tư bản không thể đem bán công nhân như hàng hoá được, vì công nhân chỉ bán sức lao động trong một thời gian, chứ không phải là nô lệ của nhà tư bản. Tư liệu sản xuất và sức lao động phải được đem ra tiêu dùng cho sản xuất. Nhà tư bản bắt công nhân làm thuê phải vận dụng tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm. Kết quả là nhà tư bản có được một số hàng hoá mới mà giá trị của chúng lớn hơn giá trị của những nhân tố đã dùng để sản xuất ra số hàng hoá đó. Do đó tiếp theo giai đoạn thứ I (mua sức lao động và tư liệu sản xuất) tất yếu dẫn đến giai đoạn thứ hai – giai đoạn sử dụng các hàng hóa đã mua, tức sản xuất. Quá trình sản xuất này được coi như một giai đoạn vận động của tư bản và có thể biểu diễn như sau: SLĐ T – H …….SX…….H’ TLSX Quá trình sản xuất ở đây diễn ra cũng giống như quá trình sản xuất của mọi hình thái xã hội khác, là sự kết hợp của hai y ếu t ố sức lao động và t ư liệu sản xuất. Phương thức kết hợp đặc thù này không chỉ là kết quả, mà còn là yêu cầu của sự vận động tư bản, quá trình sản xuất vì vậy trở thành một chức năng của tư bản, trở thành quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong khi thực hiện chức năng của mình, tư bản sản xuất tiêu dùng các thành phần của nó để biến thành một khối lượng sản phẩm có giá trị lớn hơn. Kết quả là một hàng hóa mới được tạo ra khác cả về giá trị sử dụng và lượng giá trị so với các hàng hóa cấu thành tư bản sản xuất. Hàng hóa mới này là hàng hóa mang giá trị thặng dư, đã trở thành H’, có giá trị bằng giá trị của tư bản sản NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Nhóm 27 Trang 7 xuất hao phí ra nó cộng với giá trị thặng dư (m) do tư bản sản xuất ấy đẻ ra. Nhờ vậy kết quả của giai đoạn thứ II là tư bản sản xuất biến thành tư bản hàng hóa Trong các giai đoạn tuần hoàn của tư bản thì giai đoạn sản xuất có ý nghĩa quyết định nhất, vì nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. c. Giai đoạn 3: Giai đoạn lưu thông Sản xuất hàng hóa, tư bản chưa thể ngừng vận động, nhà tư bản đang t ồn tại dưới hình thức hàng hóa, trong đó chứa đựng không chỉ có giá trị tư bản ứng trước mà còn có giá trị thặng dư, hay chức năng chuyển hóa tư bản hàng hóa thành tư bản tiền tệ và trở lại dạng ban đầu. Quá trình này có thể biểu hiện bằng công thức H’-T. Không khác gì hàng hóa thông thường, hàng hóa tư bản đưa ra lưu thông cũng chỉ thực hiện chức năng vốn có của hàng hóa là bán để lấy tiền. Nhưng nó là tư bản hàng hóa ngay sau khi quá trình sản xuất, nó đã là hàng hóa, có giá trị bằng giá trị tư bản ứng trước và giá trị thặng dư. Nhờ vậy, tiến hành trao đổi theo đúng quy luật giá t rị của nó thu về được T’, nghĩa là thu về được số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra ban đầu. Chức năng của H’ không chỉ là chức năng của mọi sản phẩm hàng hóa, mà quan trọng hơn còn là chức năng thực hiện giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất. Kết thúc giai đoạn này , tư bản hàng hóa đã biến t hành tư bản tiền tệ. Đến đây, mục đích của tư bản được thực hiện. Tư bản trở lại hình thái ban đầu với số lượng lớn hơn trước. Như vậy quá trình vận động của tư bản trong cả ba giai đoạn theo công thức: SLĐ T – H …….SX…….H’ – T’ TLSX Trong công thức này, chuỗi biến hóa hình thái có quan hệ với nhau, qui định lẫn nhau; có bao nhiêu biến hóa hình thái là có bấy nhiêu thời kỳ hay giai đoạn của quá trình vận động từ tư bản. Trong giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất. Sự vận động của tư bản trải qua 3 giai đoạn lần lượt mang ba hình thái rồi trở về hình thái ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà còn tăng lên, gọi là sự tuần hoàn của tư bản: từ hình thái tiền tệ ban đầu của vòng tuần hoàn rồi quay về dưới hình thái tiền tệ cuối cùng của vòng tuần hoàn; quá trình đó tiếp tục và lặp lại không ngừng NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Nhóm 27 Trang 8 Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường chừng nào các giai đoạn khác nhau của nó không ngừng chuyển tiếp. M ặt khác, bản thân sự tuần hoàn của tư bản lại làm cho tư bản phải nằm lại ở mỗi một giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Do đó, sự vận động tuần hoàn của tư bản là sự vận động đứt quảng không ngừng. Chính trong sự vận động mâu thuẫn đó mà t ư bản bảo t ồn, chuyển hóa giá trị và không ngừng lớn lên. B. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU 1. Ý nghĩa thực tiễn khi nghiên cứu lý thuyết tuần hoàn của tư bản đối với việc quản lý các doanh nghiệp ở nước ta khi bước vào nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Tại Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng cho nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trước năm 1986 quan hệ ngoại giao của nước ta với các nước trên thế giới rất mờ nhạt, chủ yếu quan hệ với một số nước anh em như: Liên Xô (cũ), Trung Quốc, Bungari... với mục đích tiếp tục nhận viện trợ . Nền kinh tế trong nước còn đang yếu, các doanh nghiệp sản xuất theo lệnh từ cấp trên đưa xuống và cũng chính Nhà nước tìm cách tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp bên cạnh đó lạm phát luôn là mức phi mã. Từ 1986 đến nay, nền kinh tế nước ta chuyển sang thời kì mới, môi trường hoạt động của doanh nghiệp có sự biến đổi sâu sắc, nền kinh tế nhiều thành phần. Nền kinh tế khép kín trước đây chuyển dần sang nền kinh tế mở, các doanh nghiệp nhà nước được tiếp cận với thị trường mới, kĩ thuật mới, cách quản lý mới nhưng đồng thời cũng đứng trước các thử thách khắc nghiệt của sự xâm nhập cạnh tranh quyết liệt của các hàng ngoại trong cơ chế thị trường. Vai trò trách nhiệm, đường lối quản lý của doanh nghiệp có sự đổi mới sâu sắc, tư tuởng thiếu đồng bộ của chính sách, luật lệ quản lý đã từng bước được khắc phục. Trong điều kiện đó hệ thống doanh nghiệp của nước ta bước đầu được sắp xếp lại, số lượng các doanh nghiệp nhà nước giảm nhưng những doanh nghiệp đang hoạt động vẫn chiếm giữ những ngành then chốt, nhiều doanh nghiệp dã phát huy được vai trò định hướng trung tâm liên kết các thành phần kinh tế. NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Nhóm 27 Trang 9 Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn những mặt yếu kém:  Số lượng doanh nghiệp nhiều nhưng quy mô nhỏ.  Trình độ công nghệ kĩ thuật quá lạc hậu, mức độ hoàn chỉnh đồng bộ thấp dẫn đến hao phí vật chất lớn, chất lượng sản phẩm kém, sản xuất không năng suất nên không có khả năng cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh thấp.  Sự đóng góp của doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước tuy lớn nhưng chưa tương xứng với sự đàu tư của nhà nước cho doanh nghiệp.  Hệ thống quản lý các doanh nghiệp còn nhiều yếu kém  Đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề trình độ chuyên môn thấp, chưa được đào tạo căn bản hệ thống. Do đó nghiên cứu lý thuyết thuần hoàn của tư bản rất có ý nghĩa đối với việc quản lý các doanh nghiệp ở nước ta trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Thứ nhất: xác định đường lối sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Hiện nay nước ta đang tồn tại song song 5 phần kinh tế. Cùng với sự xuất hiện của những doanh nghiệp mới thành lập đã có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả dẫn đến phá sản. Ngay từ khi có quyết định bỏ vốn thành lập doanh nghiệp nhà quản trị phải trả lời được 3 câu hỏi: doanh nghiệp sản xuất cái gì?, sản xuất như thế nào?, sản xuất cho ai?, chỉ khi trả lời ba câu hỏi này một cách đầy đủ và chính xác nhất thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới được tiến hành bình thường và liên tục hay nói cách khác doanh nghiệp góp phần thực hiện quá trình tuần hoàn tư bản. Để trả lời được câu hỏi doanh nghiệp sản xuất cái gì?, doanh nghiệp cần phân tích nhu cầu của thị trường xem thị trường đang thiếu cái gì mà nhu cầu về mặt hàng ngày đang tăng và nó sẽ mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho doanh nghiệp trong khả năng vốn hiện có. Sau đó nhà quản trị sẽ bỏ vốn để mua tư liệu sản xuất như nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, thiết bị sản xuất, nhiên liệu, nhà xưởng, kho tàng và mua sức lao động (trả lương cho công nhân). Đây là giai đoạn vốn của doanh nghiệp từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái hiện vật. Ở giai đoạn này nhà quản trị phải cân đối vốn để mua tư liệu sản xuất và trả lương cho công nhân theo tỉ lệ thích hợp. Nếu thiếu một trong hai nhân tố đó thì quá trình sản xuất sẽ bị gián đoạn làm ảnh hưởng tới sự tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Dựa vào phân tích tốc độ chu chuyển của vốn các doanh nghiệp không chỉ lên kế hoạch sản xuất kinh doanh NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Nhóm 27 Trang 10 mà còn phải xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn bằng cách hình thành các quỹ như quỹ đầu tư và phát triển, quỹ khấu hao, quỹ phúc lợi. Sau một thời gian sản xuất những quỹ này được đưa ra sử dụng mở rộng sản xuất (theo chiều rộng) hoặc cải tiến máy móc, nhập thêm dây chuyền hiện đại để tăng năng suất lao động (mở rộng theo chiều sâu). Thứ hai: tiết kiệm được tư bản ứng trước. Sau một thời gian dài hoạt động máy móc sẽ bị hao mòn dần do chuyển một phần giá trị vào sản phẩm. Ngoài việc cải tiến máy móc, nhập thêm những dây chuyền sản xuất tiên tiến, hiện đại, các doanh nghiệp phải dựa vào kinh nghiệm sản xuất kinh doanh mà dự tính trước những công việc bảo dưỡng, tiểu tu, trung tu, đại tu tài sản cố định sau những khoảng thời gian hoạt động nhất định, cũng như việc sửa chữa hư hỏng thông thường và bất thường có thể xảy ra. Ngoài ra, để tránh hao mòn vô ích, nhất là hao mòn vô hình doanh nghiệp phải ra sức tiết kiệm các chi phí bảo quản và sửa chữa bằng cách nâng cao ý thức người lao động đối với việc sử dụng máy móc, tăng cường sử dụng hết công suất máy thiết kế để thu hồi vốn nhanh và thu nhiều lợi nhuận trong thời gian ngắn nhất. Thứ ba: đưa ra các giải pháp để tăng tốc độ chu chuyển vốn. Muốn quay vòng vốn nhanh để tiếp tục một chu kỳ sản xuất mới, các doanh nghiệp phải ra sức rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông vì nó là thành phần tạo nên thời gian chu chuyển của vốn. Các doanh nghiệp ở nước ta trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thường đưa ra những giải pháp sau đây để rút ngắn thời gian sản xuất. + Áp dụng khoa học - kỹ thuật hiện đại để tăng năng suất lao động. Bên cạnh việc nhập khẩu một số dây chuyền nước ngoài có công nghệ tiên tiến, các doanh nghiệp không nên bỏ qua những dây chuyền sản xuất có khả năng sử dụng bằng cách bán lại cho những doanh nghiệp cần nó. + M ở rộng quan hệ để liên doanh, liên kết. Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới do đó liên doanh liên kết là con đường ngắn nhất để bắt kịp với sự tiến bộ của xã hội. + Cải tiến bộ máy tổ chức và quản lý lao động. Hiện nay, một số doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu tổ chức quản lý cồng kềnh dẫn đến giải quyết công việc bị chồng chéo lên nhau, vi phạm quyền hạn và trách nhiệm của người này với người khác. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải giảm lực lượng lao động gián tiếp không có năng lực để bộ máy được gọn nhẹ, linh hoạt, tuân thủ chế độ một thủ trưởng. Mặt khác lực NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Nhóm 27 Trang 11 lượ
Luận văn liên quan