Khi còn là thuộc địa, Ấn Độ đã từng được ví là viên “ ngọc miện “ của đế quốc Anh
bởi nó là thuộc địa lớn nhất, quan trọng nhất và là thị trường tiêu thụ khổng lồ trong hệ thống
thuộc địa Anh. Và dẫu sự thống trị của Anh kết thúc vào năm 1974 thì những thể chế kinh tế
- chính trị mà Anh đưa vào vẫn còn nguyên vẹn trong nhiều năm sau đó.
Có thể nói, Ấn Độ là nước đông dân thứ 2 trên Thế Giới và nhiều dự đoán cho rằng
dân số Ấn Độ sẽ lên tới 1,3 tỉ dân vào cuối năm 2008. So với Trung Quốc, Ấn Độ vẫn ít hơn
100 triệu người. Nếu Ấn Độ giành độc lập vào năm 1974 thì Cộng hòa dân chủ nhân dân
Trung Hoa vào năm 1949. Cả hai nước đều bị ngoại xâm nhưng Ấn Độ chi các nước Anh,
Pháp và Bồ Đào Nha xâm lược một, hai lần ; trong khi đó, Trung Quốc bị chiếm đóng rất
nhiều lần bởi nhiều nước khác nhau như : Mỹ, Anh , Đức, Nga và Nhật Bản. Quá trình phát
triển kinh tế của Trung Quốc là theo mô hình kinh tế cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin, một
mô hình nhấn mạnh phát triển công nghịêp nặng và được điều hành bởi Đảng Cộng Sản thì
kinh tế Ấn Độ cũng phát triển theo đường lối này với Nhà nước nắm quyền lãnh đạo trực
tiếp nhưng vẫn giữ cơ chế dân chủ của TBCN.
Tuy vậy, kinh tế Trung Quốc và kinh tế Ấn Độ có nhiều điểm khác nhau hơn là giống
nhau. Trung Quốc có dân tộc thuần nhất và ngô ngữ chung thống nhất nhưng Ấn Độ lại có
nhiều dân tộc và ngôn ngữ cũng như tôn giáo đa dạng. Cả hai điểm này đều khiến chính trị
Ấn Độ không được ổn định nhưng với Trung Quốc thì điều đó lại ngược lại. Và trong tương
lai,Ấn Độ sẽ còn gặp nhiều thách thức khi tiếp tục theo chế độ dân chủ đa Đảng kiểu phương
Tây nhưng điều này sẽ không có ở Trung Quốc.Vì vậy, có thể nói kinh tế Trung Quốc phát
triển nhanh hơn kinh tế Ấn Độ.Về mặt xã hội, Trung Quốc cũng có tỷ lệ thất học và nghèo
đói thấp hơn Ấn Độ,. Theo đánh giấ của WB, năm 2000, Trung Quốc đã là nước có thu nhập
trung bình thấp trong khi Ấn vẫn bị coi là nước nghèo.Đến năm 2008, Ấn Độ mới đạt là
nước có thu nhập trung bình thấp thì Trung Quốc đã là nước có thu nhập trung bình cao .Dù
Trung Quốc, Ấn Độ đều giành được độc lập vào cùng 1 thời gian và Trung Quốc còn cải
cách kinh tế sau Ấn Độ nhưng hiện nay, các nhà kinh tế đều khẳng định Trung Quốc lại là
nước phát triển nhanh và đạt được những kết quả tốt hơn Ấn Độ nhiều.Tại sao lại như vậy?
Lý do gì khiến Ấn phải đi sau Trung Quốc ? Và liệu tương lại chú voi Ấn có vượt qua con
rồng Châu Á Trung Quốc không?
41 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3405 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích kinh tế Ấn Độ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Phân tích kinh tế Ấn Độ
LỜI MỞ ĐẦU
Khi còn là thuộc địa, Ấn Độ đã từng được ví là viên “ ngọc miện “ của đế quốc Anh
bởi nó là thuộc địa lớn nhất, quan trọng nhất và là thị trường tiêu thụ khổng lồ trong hệ thống
thuộc địa Anh. Và dẫu sự thống trị của Anh kết thúc vào năm 1974 thì những thể chế kinh tế
- chính trị mà Anh đưa vào vẫn còn nguyên vẹn trong nhiều năm sau đó.
Có thể nói, Ấn Độ là nước đông dân thứ 2 trên Thế Giới và nhiều dự đoán cho rằng
dân số Ấn Độ sẽ lên tới 1,3 tỉ dân vào cuối năm 2008. So với Trung Quốc, Ấn Độ vẫn ít hơn
100 triệu người. Nếu Ấn Độ giành độc lập vào năm 1974 thì Cộng hòa dân chủ nhân dân
Trung Hoa vào năm 1949. Cả hai nước đều bị ngoại xâm nhưng Ấn Độ chi các nước Anh,
Pháp và Bồ Đào Nha xâm lược một, hai lần ; trong khi đó, Trung Quốc bị chiếm đóng rất
nhiều lần bởi nhiều nước khác nhau như : Mỹ, Anh , Đức, Nga và Nhật Bản. Quá trình phát
triển kinh tế của Trung Quốc là theo mô hình kinh tế cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin, một
mô hình nhấn mạnh phát triển công nghịêp nặng và được điều hành bởi Đảng Cộng Sản thì
kinh tế Ấn Độ cũng phát triển theo đường lối này với Nhà nước nắm quyền lãnh đạo trực
tiếp nhưng vẫn giữ cơ chế dân chủ của TBCN.
Tuy vậy, kinh tế Trung Quốc và kinh tế Ấn Độ có nhiều điểm khác nhau hơn là giống
nhau. Trung Quốc có dân tộc thuần nhất và ngô ngữ chung thống nhất nhưng Ấn Độ lại có
nhiều dân tộc và ngôn ngữ cũng như tôn giáo đa dạng. Cả hai điểm này đều khiến chính trị
Ấn Độ không được ổn định nhưng với Trung Quốc thì điều đó lại ngược lại. Và trong tương
lai,Ấn Độ sẽ còn gặp nhiều thách thức khi tiếp tục theo chế độ dân chủ đa Đảng kiểu phương
Tây nhưng điều này sẽ không có ở Trung Quốc.Vì vậy, có thể nói kinh tế Trung Quốc phát
triển nhanh hơn kinh tế Ấn Độ.Về mặt xã hội, Trung Quốc cũng có tỷ lệ thất học và nghèo
đói thấp hơn Ấn Độ,. Theo đánh giấ của WB, năm 2000, Trung Quốc đã là nước có thu nhập
trung bình thấp trong khi Ấn vẫn bị coi là nước nghèo.Đến năm 2008, Ấn Độ mới đạt là
nước có thu nhập trung bình thấp thì Trung Quốc đã là nước có thu nhập trung bình cao .Dù
Trung Quốc, Ấn Độ đều giành được độc lập vào cùng 1 thời gian và Trung Quốc còn cải
cách kinh tế sau Ấn Độ nhưng hiện nay, các nhà kinh tế đều khẳng định Trung Quốc lại là
nước phát triển nhanh và đạt được những kết quả tốt hơn Ấn Độ nhiều.Tại sao lại như vậy?
Lý do gì khiến Ấn phải đi sau Trung Quốc ? Và liệu tương lại chú voi Ấn có vượt qua con
rồng Châu Á Trung Quốc không?
Để có thể trả lời cho những câu hỏi trên, chúng em xin đi vào phân tích kinh tế Ấn
Độ qua 4 chương:
Chương I : Sơ lược về Ấn Độ. Ở chương này chúng em sẽ đưa ra cái nhìn khái quát
chung về tình hình văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị của Ấn Độ hiện nay
Chương II : Lịch sử kinh tế Ấn Độ. Với chương này, chúng em sẽ đi phân tích tình hình
kinh tế Ấn Độ qua các thời kỳ mà chủ yếu là thời kỳ thuộc địa và sau thuộc địa
Chương III : Đánh giá sự phát triển kinh tế Ấn Độ. Chương III này chúng em sẽ đưa ra
những đánh giá của mình về sự phát triển kinh tế của Ấn Độ và so sánh với một số quốc
gia khác trong những năm qua đặc biệt là so sánh kinh tế Ấn Độ với Trung
Quốc.Độ.Đồng thời, chúng em tìm ra những nguyên nhân chính Trung Quốc lại vượt
trước Ấn Độ cũng như dự báo xem liệu tương lai Ấn Độ có bắt kịp và vượt qua Trung
Quốc không?
Chúng em xin chân thành cảm ơn TS Phan Thị Nhiệm đã tạo điều kiện và nhiệt tình
hướng dẫn chúng em hoành thành bài viết này.
Do khả năng còn có hạn nên bài viết vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự
đóng góp và bổ sung của các thầy cô và bạn đọc để bài viết của chúng em được hoàn thiện
hơn.
Chương I : Sơ lược về Ấn Độ
I.Khái quát chung vể đặc điểm vị trí địa lý, diện tích dân số :
1.Tên nước : Cộng hòa Ấn Độ
2.Thủ đô : Niu Đê-li.
3.Địa lý :
Nước Ấn Độ thuộc khu vực Nam Á.
Phía Bắc giáp Trung Quốc, Nê – pan và Bu – tan.
Phía Đông Bắc giáp Miến Điện, Băng – la – đét
Phía Tây Bắc giáp Pa – ki – stan và Af – gha – ni – stan.
Phía Tây, Đông và Nam là Ấn Độ Dương bao bọc.
4Diện tích đất nước :
Ấn Độ có tổng diện tích là 3.280.483 km2 – đứng thứ 7 trên thế giới.
5.Dân số:
Theo điều tra thống kê vào tháng 7 năm 2006 thì dân số Ấn độ có 1095,351 triệu
người. Nhưng dự tính đến đâu năm 2008, dân số Ấn Độ đã đạt tới con số 1 tỉ 200 triệu
người.
6.Ngày độc lập :
Ngày 15/8/1947 là ngày Ấn Độ giành lại độc lập từ đế quốc Anh xâm lược.
7.Ngày Cộng hòa :
Ngày Quốc khánh của Ấn Độ là 26/1/1950.
8.Tôn giáo :
Ấn Độ không có quốc đạo. Có sáu tôn giáo chính : trên 80% dân số theo Ấn Độ giáo,
13% theo Hồi giáo, 2% theo Thiên chúa giáo, 2% theo Đạo Sikh, khoảng 1% theo đạo Thiền
( Jainism ) và 0,75% theo Phật giáo. Chính sự đa tôn giáo này khiến nhiều cuộc xung đột sắc
tộc đã và vẫn đang xảy ra ở Ấn Độ làm tình hình chính trị không thể ổn định.
9.Ngôn ngữ :
Có mười chín thứ tiếng được Hiến pháp công nhận là ngôn ngữ chính. Tiếng Hindi là
ngôn ngữ chính thức làm việc của Nhà Nước liên bang và được gần 40% dân số sử dụng.
Tiếng Anh là ngôn ngữ giao t iếp, được sử dụng rộng rãi.
10.Đơn vị tiền tệ :
Đơn vị tiền tệ của Ấn Độ là Rupi. 1 INR = 100 paise. 36 Rupi = 1 USD
II.Thể chế chính trị :
Nhà nước Ấn Độ được tổ chức theo hình thức liên bang và theo chế độ dân chủ đại
nghị.Hiện nay, Ấn Độ có 28 bang và 7 lãnh thổ trực thuộc trung ương.
Quốc hội liên bang gồm 2 viện : Thượng viện ( Raiya Sabba ) và Hạ viện ( Lok Sahba ).
Chính phủ Liên bang gồm có : Tổng thống, Phó Tổng thống và Hội đồng Bộ trưởng, đứng
đầu là Thủ tướng.
1.Lãnh đạo hiện nay ( 2007 ) :
Tổng thống : A.P.G Ap – đun Ca – lam ( APJ Abdul Kalam ) , từ 2/2002 ( hết nhiệm
kỳ vào 7/2007).
Thủ tướng ( từ 5/2004) : Man – mô – han Xinh ( Manmohan Singh ).
Chủ tịch Quốc hội : S.Chat – tơ – di ( S.Chatteriee ) từ 6/2004.
Đứng đầu Hội đồng Bộ trưởng là Thủ hiến bang ( Chief Minister ).Thống đốc do
Tổng thống chỉ định, nhiệm kỳ 5 năm. Thủ hiến do Thống đốc bổ nhiệm.
2.Các Đảng chính trị ở Ấn Độ:
Ấn Độ có rất nhiều đảng phái chính trị, trong đó có một số đảng chủ yếu là:
2.1.Đảng Q uốc Đại
Đảng Quốc đại thành lập năm 1885, có khoảng 25 triệu đảng viên chính thức. Đảng
Quốc Đại đã nhiều lần phân liệt thành các đảng nhỏ. Từ năm 1980, Quốc Đại chính thức
mang tên Indira Gandhi, gọi là Quốc Đại I. Đảng Quốc Đại cầm quyền liên tục nhiều lần tại
Ấn Độ. Trong cuộc bầu cử Hạ viện lần 14 tháng 5/2004. Quốc Đại I liên minh với 19 đảng
giành đa số ghế ( 219/545, trong đó Quốc đại có 142 ghế ) và đứng ra lập Chính Phủ Liên
minh Tiến bộ thống nhất ( UPA ).
Chủ tịch Đảng là bà Xô – ni – a Gan – đi ( Sonia Gandhi ), vợ cố Thủ tướng Rajiv
Gandhi.
2.2.Đảng Nhân dân Ấn Độ ( BJP ):
Đảng Nhân dân Ấn độ thành lập năm 1980. Trong cuộc bầu cử Hạ viện 13 ( 10/1999
), Liên minh Dân chủ Quốc gia ( NDA ) gồm 24 đảng do BJP làm nòng cốt giành được 298
ghế, trong đó BJP được 182 ghế và cầm quyền từ đó đến tháng 4/2004. Tại cuộc bầu cử Hạ
viện 14, BJP đồng minh giành được 188 ghế, riêng BJP được 135 ghế.
Chủ tịch hiện nay là ông Rai – nát – Xinh ( Rajnath Singh ); được bầu từ tháng
1/2006.
2.3.Đảng Cộng sản Ấn Độ ( C PI ):
Đảng Cộng sản Ấn Độ thành lập vào năm 1925. Hiện có khoảng 56 vạn đảng viên.
Trong cuộc bầu cử Hạ viện 14, CPI giành được 10 ghế.
Tổng Bí thư là A.B. Bác – đan ( Arhendu Bhushan Bardhan ), bầu lại lần thứ tư tại
Đại hội 19 vào tháng 4/2005.
2.4.Đảng Cộng sản Ấn Độ ( Mác – xí t ) - C PI ( M ) :
Đảng Cộng sản Ấn Độ ( Mác – xít ) thành lập năm 1964, hiện có khoảng 80 vạn đảng
viên.Tại cuộc bầu cử tại Hạ viên 14, CPI – M giành được 43 ghế.
Tổng bí thư : Pra – kat Ka- rát ( Prakash Karat ) được bầu tại Đại hội 18 vào tháng
4/2005.
III.Đặc điểm về kinh tế – xã hội:
1.Về kinh tế :
Nền kinh tế Ấn Độ lớn thứ ba thế giới nếu tính theo sức mua tương đương ( PPP ) ;
đứng thứ 10 trên thế giới nếu tính theo tỷ giá hối đoái với USD( Tổng sản phẩm quốc nội –
GDP đạt 1 nghìn tỷ USD năm 2007 ). Ấn Độ là nền kinh tế lớn, tăng trưởng nhanh thứ hai
trên thế giới, với tốc độ tăng trưởng GDP lên tới 9,4% trong năm tài chính 2006 – 2007. Tuy
nhiên, dân số khổng lồ đã làm cho GDP bình quân đầu người chỉ đạt mức 4031 USD tính
theo PPP hay 885 USD tính theo GDP danh nghĩa ( ước năm 2007 ). Ngân hàng thế giới WB
xếp Ấn Độ vào nhóm các nền kinh tế có thu nhập thấp ( năm 2000 ).
Nền kinh tế Ấn Độ đa dạng và bao gồm các ngành và lĩnh vực : nông nghiệp, thủ công
nghiệp, dệt, chế tạo và nhiều ngành dịch vụ. Dù 2/3 lực lượng lao động Ấn Độ vẫn trực tiếp
hay gián tiếp sống bằng nghề nông nhưng dịch vụ là một lĩnh vực đang tăng trưởng và hiện
đang đóng góp vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế Ấn Độ. Sự tiến tới một thời
đại kỹ thuật số và một số lượng lớn dân số trẻ và có học, thông thạo tiếng Anh đang dần
chuyển Ấn Độ thành một điểm đến quan trọng của các dịch vụ điều hành kinh doanh (
backoffice ) của các công ty toàn cầu khi họ tiến hành outsourcing ( đưa một phần hoặc toàn
bộ công việc sang cho các nước khác thực hiện ) các dịch vụ khách hàng hoặc hỗ trợ kỹ thuật
của họ. Ấn Độ là một nước xuất khẩu chính nhân công tay nghề cao t rong lĩnh vực phần
mềm và các dịch vụ tài chính và công nghệ phần mềm. Các lĩnh vực khác nhau như chế tạo,
dược phẩm, công nghệ sinh học, công nghệ nano, viễn thông, đóng tàu và hàng không đang
thể hiện tiềm năng mạnh và đang đạt mức tăng trưởng ngày càng cao hơn.
Ấn Độ đã từng áp dụng một phương pháp kinh tế xã hội chủ nghĩa trong gần suốt lịch
sử độc lập của mình. Chính phủ đã kiểm soát chặt chẽ sự tham gia của khu vực tư nhân,
ngoại thương và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, kể từ đầu thập niên 1990, Ấn Độ đã
dần mở cửa thị trưởng của mình thông qua các cuộc cải cách kinh tế theo hướng giảm kiểm
soát của chính phủ đối với thương mại và đầu tư.Việc tư nhân hóa các ngành thuộc sở hữu
công và việc mở cửa một số ngành nhất định cho nước ngoài và tư nhân tham gia diễn ra
chậm chạp và gắn liền với những tranh cãi chính trị.
2.Về mặt xã hội
Ấn Độ đã và vẫn đang đối mặt với một dân số tăng nhanh và đòi hòi giảm bất bình
đẳng kinh tế – xã hội. Nghèo vẫn là một vấn đề nghiêm trọng dù nghèo đã giảm đáng kể từ
khi quốc gia này giành được độc lập, chủ yếu là nhờ cuộc cách mạng xanh và các công cuộc
cải tổ kinh tế.
IV.C hính sách đối ngoại:
Ấn Độ chủ trương xây dựng phát triển đất nước theo con đường độc lập dân tộc và tự
lực tự cường, thi hành chính sách đối ngoại hòa bình, không liên kết, hữu nghị với các nước.
Một trọng tâm trong chính sách dối ngoại của Ấn Độ là tăng cường quan hệ với các
nước Châu Á và các nước láng giềng. Với khu vực Nam Á, Ấn Độ tích cực thúc đẩy quan hệ
kinh tế, thương mại và đầu tư để tạo sự gắn kết, tăng cường hợp tác khu vực thông qua Hiệp
Hội Hợp tác khu vực Nam Á ( SAARC ). Với Đông Á, Ấn Độ triển khai chính sách “
Hướng Đông” và tăng cường quan hệ với các nước khu vực này, trong đó chọn ASEAN là
một trong những trọng tâm đột phá.
Ấn Độ tích cực tham gia các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế. Ấn Độ đã trở
thành thành viên của ARF, ASEM, Cấp cao Đông Á, đang phấn đấu để trở thành Ủy viên
thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, gia nhập APEC.
Chương II :Lịch sử kinh tế Ấn Độ:
Lịch sử kinh tế Ấn Độ có thể đại khái chia ra thành 3 kỷ nguyên: bắt đầu bằng thời
kỳ tiền thuộc địa kéo dài đến thế kỷ 17. Thời kỳ thuộc địa của Anh bắt đầu từ thế kỷ 17, kết
thức bằng mốc Ấn Độ giành được độc lập từ Anh quốc năm 1974. Thời kỳ thứ 3 kéo dài từ
năm 1947 cho đến nay
Do thời gian có hạn,chúng em xin đi lướt qua thời kỳ tiền thuộc địa mà đi sâu vào
phân tích thời kỳ thuộc địa và thời kỳ hậu thuộc địa đến nay.
I.Thời kỳ thuộc địa ( 1857-1950 ):
Ấn Độ có trên 5000 năm lịch sử, là một trong những cái nôi văn minh của loài
người. Triều đại Ashoka (273-323 sau công nguyên) là thời kỳ hưng thịnh nhất của lịch sử
cổ đại Ấn Độ, lãnh thổ Ấn được mở rộng gần như ngày nay. Từ cuối thế kỷ 15, người Châu
Âu bắt đầu đặt chân lên Ấn Độ. Đầu tiên là Bồ Đào Nha, đặt trung tâm thương mại của mình
tại Goa, tiếp đến là Hà Lan đặt một số cơ sở thương mại tại Ấn Độ, sau đó là tới Pháp và
Anh.Năm 1857, Ấn trở thành thuộc địa của Anh Mãi đến năm 1974, Ấn Độ mới giành lại
quyền tự trị cho mình.
1.Quá trình xâm lược của Anh ( từ 1500-1858)
1.1.Anh và chủ nghĩa trọng thương.
Chủ nghĩa trọng thương là 1 lý thuyết thương mại ra đời và phát triển từ năm 1500 đến
1800. Theo thuyết trọng thương, các nước nên xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu và nếu làm
thành công thì sẽ nhận được 1 khoảng thặng dư thương mại bằng vàng từ nước khác hoặc
ngược lại các nước đó đã bị thâm hụt thương mại.Để có thể xuất nhiều hơn nhập,chính phủ
phải thao túng họat động thương mại của nước mình.Việc xâm lược các nước của Anh nhằm
phục vụ cho lý thuyết thương mại này.Đầu tiên, các nước thuộc địa sẽ cung cấp nhiều hàng
hóa mà chính quốc phải nhập từ nước ngoài nên sẽ đạt được thặng dư thương mại nhiều
hơn.Thứ 2,các nước thuộc địa lại phải nhập khẩu từ các nước chính quốc để bị thâm hụt
thương mại. Để đạt được mục đích này, các nước chính quốc đã không chỉ thao túng ngành
thương mại thụôc địa mà còn kìm hãm sự phát triển sản xuất của các nước thuộc địa.Vì vậy,
các nước thuộc địa phải xuất khẩu những nguyên liệu thô ít giá trị và nhập khẩu những thành
phẩm giá trị cao.
Những đế quốc dựa trên chính sách thuyết trọng thương này là Bồ Đào Nha, Tây Ba
Nha, Anh , Pháp và Hà Lan.Và tất cả các nước này đều có ngành hải thương phát triển. Bồ
Đào Nhà là đế quốc đầu tiên tạo được quan hệ với Ấn Độ và chiếm hữu được phía Tây của
nước này vào 1511.Bồ Đào Nha đã thâm nhập được vào Ấn Độ nhờ Công ty Đông Ấn của
Hà Lan (The Dutch East India Company) – 1 công ty đã kiểm soát hết các hảng cải ở Nam
Ấn vào khoảng 1600. Tuy nhiên , 2 đế quốc xâm lược chủ đạo ở Ấn lại là Anh và Pháp. Anh
đã nắm quyền ở Bombay và Pháp thì ở Calcutta vào những năm đầu thế kỷ 17.Hai nước này
đã kiểm soát hầu hết hoạt động thương mại với nước ngoài của Ấn trong suốt 150 năm nhờ
những đặc quyền có được.Ở Anh, công ty Đông Ấn - Anh (The British East India Com pany)
đã được đặc quyền của nữ hoàng Elizabeth và trở thành công ty liên doanh duy nhất giữa Ấn
và Anh. Công ty này đã kiểm soát thương mại Ấn - Anh mãi cho tới khi bị tan rã vào năm
1833..Pháp cũng có 1 công ty như thế , 1 công ty mà có sự độc quyền thương mại giữa Pháp
và Ấn
1.2.Uy thế của Anh ở Ấn:
Tuy Pháp chiếm nhiều địa hạt Ấn Độ hơn là Anh nhưng Pháp lại để mất Ấn vào tay Anh
Nguyên nhân trước hết từ phía Anh, Anh đã trở thành người đứng đầu trong sức mạnh hàng
hải ở Châu Âu. Pháp lại bị dính vào cuộc chiến ở Châu âu và không còn nguồn lực để đổ vào
Canada và Ấn độ nữa.Vịêc Anh nắm toàn quyền kiểm soát ở Ấn còn dễ dàng hơn nữa khi đế
quốc Môngô ( Mogul) tan vỡ thành nhiều lãnh địa mà không có lãnh đạo chủ chốt.Vì vậy,
Anh đã dễ dàng chia rẽ và xâm lược Ấn Độ.Đến năm 1750, trên thực tế Anh đã trở thành
người cầm quyền không chính thức của đất nước này.Trong cuộc chiến thắng lợi này, Anh
đã xâm chiếm toàn bộ Ấn độ và biến nó trở thành thuộc địa của đế quốc Anh. Năm 1858,
Anh chiếm toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ.
2.Chính sách “ hút m áu “ của đế quốc Anh( 1810-1947 ):
Trở thành thụôc địa của Anh, Ấn bị giam hãm bởi những những bộ luật Anh đưa ra
như mậu dịch không ngang giá và hệ thống thuế mới. Ấn Độ trở thành thị trường tiêu thụ
những sản phẩm Anh sản xuất ra và cũng là thị trường cung cấp sợi bông và những nguyên
liệu thô khác cho Anh.Kết quả là Ấn Độ bị Anh hút máu đến cùng cực.
Đối với nghề thủ công,Anh bóc lột rất tàn nhẫn.Họ thông qua các thương quán của các
công ty Anh được bố trí khắp mọi nơi cũng như thông qua người mại bản Ấn Độ để cưỡng
bách hàng triệu người làm nghề thủ công tại Ấn Độ phải gia công những mặt hàng do họ đặt
làm trong khi đó họ lại trả tiền công cho những người này chỉ bằng nửa giá bán ngoài thị
trường,thậm chị không đủ để mua lại nguyên liệu.
Ngoài ra, công ty của Anh còn độc quyền muối,thuốc lá và nha phiến.Công ty cưỡng
bách nông dân trồng thuốc phiện và họ mua vào với giá thấp rồi đem buôn lậu vào Trung
Quốc để kiếm lời.Nguồn lợi từ nha phiến đã chiếm 1/7 tổng thu nhập của công ty Đông Ấn –
Anh.
Từ năm 1814 đến 1835, Anh đã dựa vào mức thuế quan thấp ( thuế đới với hàng dệt
may bằng bông vải là 3,5% ,hàng dệt bằng sợi len là 2%),nên từ chỗ trước khi chở sang Ấn
Độ các loại vải dệt bằng sợ bông chưa đầy 1 triệu Yard ( 0,0144m) đã tăng lên đến 41 triệu
Yard trở lên. Nước Ấn Độ từ xa xưa nổi tiếng trên Thế giới bằng sợi bông vải thế mà lúc
đó,đâu đâu cũng toàn hàng dệt bằng sợ bông vải của Anh.Do hàng hóa của Anh quá rẻ, khiến
các ngành thủ công tại Ấn Độ bị đánh 1 đòn có tính hủy diệt. Hàng triệu người làm nghề thủ
công bị phá sản, lâm vào cảnh tuyệt vọng.Dacca trước đay nổi tiếng về công nghịêp dệt sợi
mà nay đã trở nên tiêu điều. Từ năm 1827 đến 1837, dân số thành phố này từ 150000 người
giảm còn 130000 người. Riêng tổng đốc Anh là William Cavendish Bentick cũng phải thừa
nhận: “ tình trạng bi thảm chưa từng có trong lịch sủ thương nghiệp Ấn. Xương trắng của
những người công nhân dệt bông vải đã trải trắng cả một cánh đồng mênh mông”.
Về thuế ruộng đất,Anh đã đưa ra 2 chế độ thuế : thuế “ Zamindan cố định” ( tước bỏ
quyền thừa kế ruộng đất,không thừa nhận quyền sở hữu mảnh đất người dân canh tác và
buộc họ phải nôp thuế ruộng đất cho công ty với số lượng1/2 đến 1/3 sản lượng hàng năm
của họ) và chế độ thuế “ Zamindan không cố định”( 25-30 năm 1 lần định lại mức thu
thuế).Mác cho rằng 2 loại thuế đó có sức mâu thuẫn nội tại to lớn, đều không nhằm vào việc
bảo vệ cho người chiếm hữu và quản lý ruộng đất cũng không bảo vệ đông đảo tầng lớp
nông dân mà chỉ bảo vệ lợi ích cho chính phủ trong vịêc trưng thu thuế ruộng đất.Kết quả là
thu nhập thuế tăng vọt.Như niên khóa 1800-1801, tông thuế thu ruộng đất là 4,2 triệu bảng
mà tới niên khóa 1857-1858 thì đã tăng vọt lên 15,6 triệu bảng Anh chiếm trong mức thuế
thu được là 3/5.Hậu quả là người nông dân chiếm 11/12 số dân cư Ấn trở thành nghèo xơ
xác.Nửa đầu thế kỷ 19 liên tục xảy ra 7 trận đói lớn và có khoảng 1,5 triệu người Ấn chết
đói.
Đại chiến thế giới lần thứ nhất đã tiếp tục mang đến cho Ấn độ những đau khổ sâu
sắc.Đó là một cuộc chiến tranh giữa các đế quốc nhưng Anh đã kéo Ấn Độ vào với lời hứa
trả lại quyền tự trị.Trong cuộc đại chiến có tới 1,5 triệu người Ấn bị điều động đến chiến
trường Tây Âu và Trung Cận Đông trong đó hơn 100 nghìn người bị thương vong.Cuộc đại
chiến còn trút gánh nặng kinh tế lên vai Ấn.Trong thời gian đại chiến, nhân dân Ấn gánh
chịu đến 100 triệu bảng Anh quân phí,chỉ kém hơn chính quốc là nước Anh.Nước Anh còn
trưng dụng và điều động 1 lượng lớn vật chất và lương thực.Ấn đã phải công nộp cho Anh
3690000 tẤn vật chất và 5 triệu tẤn lương thực mà không được bồi hoàn nên Ấn nợ chồng
chất tới 7.800.000.000 Rupee.Một lượng lớn lương thực bị chở ra ngoài đã làm giá lương
thực tăng vọt chưa từng có.Chỉ trong 1918, đã có 12 triệu người dân Ấn chết do nghèo đói và
dịch cảm cúm ( chiếm 5% dân số Ấn thời bấy giờ)
Có thể nói,sản phẩm của sự hút máu đến tận cùng của Anh là đã phá hoại kinh tế và xã hội
của Ấn Độ 1 cách trầm trọng, làm cho Ấn Độ trở thành một quốc gia nghèo nàn cùng cực.Nó
làm tan rã công xã nông thôn của Ấn Độ, phá hoại kinh tế phong kiến tự nhiên kết hợp giữa
nông nghịêp và thủ công nghiệp của Ấn Độ; phá hoại những nghề thủ công truyền thống của
Ấn độ.Thêm vào là mối quan hệ tư bản chủ nghĩa lại không xuất hịên sau khi cơ cấu của xã
hội cũ bị ran rã làm người dân Ấn Độ càng chịu nhiều tai họa nặng nề.Do vậy mâu thuẫn
giữa thực dân Anh và dân tộc Ấn độ sâu sắc..Liên tục các phong trào khởi nghĩa được dấy
lên.Tự do cho Ấn Độ chỉ còn là vấn đề thời gian...
3.Ấn Độ độc lập – 1974
Những phong trào