Trước năm 1500, trên mảnh đất Nigeria đã tồn tại vương quốc Borno ở miền bắc, vương quốc
Haussa ở miền tây và vương quốc Yorbura ở miền nam. Đến thế kỷ16, các vương quốc này
tương đối phát triển và đã có giao lưu với người Châu Âu. Giữa thế kỷ 19, thực dân Anh bắt đầu
xâm chiếm Nigeria. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Anh để cho Nigeria được tự trị. Năm 1957,
Chính phủ tự trị được thành lập ở miền tây và hai năm sau được thành lập ở miền bắc Nigeria.
Ngày 1/10/1960, Nigeria chính thức tuyên bố độc lập.
Những thập kỷ qua, tình hình chính trị xã hội của Nigeria có nhiều biến động với các cuộc đảo
chính, nội chiến, tranh giành quyền lực giữa các bộ tộc ở miền nam và miền bắc. Từ cuối năm
1998, sau các cuộc bầu cử Quốc hội và Tổng thống, tình hình Nigeria đã dần đi vào ổn định.
Thể chế chính trị: chính thể Cộng hòa, đứng đầu Nhà nước và Chính phủ là Tổng thống. Nhà
nước Nigeria hiện nay là Nhà nước Liên bang bao gồm 36 bang, mỗi bang có một thống đốc
đứng đầu. Quốc hội lưỡng viện gồm Thượng viện (109 ghế) có nhiệm kỳ 7 năm và Hạ viện (360
ghế) có nhiệm kỳ 7 năm
31 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1989 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích kinh tế Nigeria, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Phân tích kinh tế Nigeria
Hoàn cảnh lịch sử:
Trước năm 1500, trên mảnh đất Nigeria đã tồn tại vương quốc Borno ở miền bắc, vương quốc
Haussa ở miền tây và vương quốc Yorbura ở miền nam. Đến thế kỷ16, các vương quốc này
tương đối phát triển và đã có giao lưu với người Châu Âu. Giữa thế kỷ 19, thực dân Anh bắt đầu
xâm chiếm Nigeria. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Anh để cho Nigeria được tự t rị. Năm 1957,
Chính phủ tự trị được thành lập ở miền tây và hai năm sau được thành lập ở miền bắc Nigeria.
Ngày 1/10/1960, Nigeria chính thức tuyên bố độc lập.
Những thập kỷ qua, tình hình chính trị xã hội của Nigeria có nhiều biến động với các cuộc đảo
chính, nội chiến, tranh giành quyền lực giữa các bộ tộc ở miền nam và miền bắc. Từ cuối năm
1998, sau các cuộc bầu cử Quốc hội và Tổng thống, tình hình Nigeria đã dần đi vào ổn định.
Thể chế chính trị: chính thể Cộng hòa, đứng đầu Nhà nước và Chính phủ là Tổng thống. Nhà
nước Nigeria hiện nay là Nhà nước Liên bang bao gồm 36 bang, mỗi bang có một thống đốc
đứng đầu. Quốc hội lưỡng viện gồm Thượng viện (109 ghế) có nhiệm kỳ 7 năm và Hạ viện (360
ghế) có nhiệm kỳ 7 năm.
Tổng quan phát triển kinh tế :
Trong những năm 70 và 80, với dân số lớn nhất Châu Phi và nguồn thu ngoại tệ lớn từ
dầu mỏ, Nigeria từng là nước có nền kinh tế mạnh nhất Châu Phi. Tuy nhiên, sang thập kỷ 90,
cùng với việc giá dầu giảm sút trên thị trường thế giới và bất ổn chính trị xã hội trong nước, kinh
tế Nigeria tăng trưởng chậm lại. Nền kinh tế Nigeria rất nhạy cảm với sự biến động của giá dầu.
Trong thời gian gần đây, Chính phủ Nigeria đã thực hiện một số cải cách kinh tế như đẩy
mạnh tư nhân hóa, bỏ dần trợ cấp và đấu tranh chống tham nhũng để dần làm cho nền kinh tế
Nigeria trở nên đa dạng hóa.
Trong cơ cấu GDP Nigeria, công nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhưng phụ thuộc nặng vào
dầu mỏ. Nigeria là nước sản xuất dầu lớn thứ 6 trên thế giới và lớn thứ 2 ở Châu Phi sau Libi.
Nigeria là thành viên của OPEC, đồng thời là nước cung cấp dầu chủ yếu cho Tây Âu và Mỹ.
Hiện nay, do ngành công nghiệp khí đốt phát triển nên Chính phủ Nigeria cũng hy vọng sự phụ
thuộc vào dầu mỏ sẽ giảm xuống trong thời gian tới.
Mặc dù ngành công nghiệp dầu khí thống trị nền kinh tế, nhưng cơ bản Nigeria vẫn là
nước nông nghiệp. Lực lượng lao động trong ngành nông nghiệp chiếm 60-70% dân số. Các
nông sản chính là khoai lang, sắn, ngô, lúa miến, kê, lạc, cà phê, cacao, mía, chè, dầu cọ, gạo.
Nhìn chung sản lượng nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước và hàng năm Nigeria
phải nhập khẩu một khối lượng lớn lương thựcLĩnh vực dịch vụ chỉ chiếm mức tỷ trọng thấp so
với các nước đang phát triển khác. Các hoạt động dịch vụ chính là ngân hàng, viễn thông, giao
thông vận tải.
Hoạt động xã hội :
Nigeria vẫn là quốc gia có những bất ổn về chính trị, xung đột tôn giáo luôn diễn ra khiến đời
sống người dân trở nên khó khăn. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, quyền con người, phúc lợi xã hội ở
quốc gia này vẫn chưa thực sự được chú ý.
I . Tổng quan về Nigeria
1. Tên quốc gia: Cộng Hòa liên bang Nigeria (Federal Republic of Nigeria)
2. Địa lý:
( Quốc kì)
( Bản đồ Nigeia)
Quốc gia liên bang ở Tây Phi, Bắc giáp Niger, Nam giáp vịnh Guinea, Đông giáp
Cameroon, Đông Bắc giáp Chad, Tây giáp Bénin. Địa hình mấp mô trong vùng cao nguyên sa
thạch ở phía Bắc, thoải dần về phía vùng đồng bằng thuộc lưu vực sông Niger và sông Benue ở
phía Nam và vùng chậu quanh hồ Chad. Vùng bờ biển đầy cát. Vùng châu thổ sông Niger được
bao quanh bởi các khu rừng sú vẹt. Nigeria là quốc gia đông dân nhất châu Phi với trên 200
nhóm dân tộc khác nhau cùng chung sống và sử dụng ngôn ngữ riêng. Phía Nam là vùng đất
nhộn nhịp nhất của đất nước, nơi tập trung phần lớn số dân đô thị.
Các sông chính Sông Niger (4.200 km), sông Benue (1.083 km), sông Kaduna.
3. Tôn giáo , sắc tộc:
- Sắc tộc: Có trên 250 nhóm sắc tộc, chủ yếu : Hausa và Fulani 29%, Yoruba 21%,
Igbo (Ibo) 18%, Ijaw 10%, Kanuri 4%, Ibibio 3,5%, Tiv 2,5%.
- Tôn giáo: Hồi giáo 50%, Cơ đốc giáo 40%, tín ngưỡng bản địa 10%.
4. Ngôn ngữ : Anh ( chính thức), Hausa, Fulani, Yoruba, Igbo.
5. Thủ đô : Abuja
6. Ngày độc lập : 1- 10- 1960 ( từ Anh)
7. Hệ thống luật pháp: dựa theo luật của Anh và luật Hồi giáo.
8. Diện tích
tổng 923,768.00 km²
đất 910,768.00 km²
nước 13,000.00 km²
9. Dân số (2007) 135 triệu người
Mật độ dân cư (2007)146.17 người/km²
10. Khí hậu
Khí hậu tương đối đa dạng: miền Nam chịu ảnh hưởng khí hậu xích đạo nóng và ẩm; miền
Trung chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới, miến Bắc chịu ảnh hường khí hậu hoang mạc khô
và nóng. Vùng biển có lượng mưa lớn, nhưng càng đi sâu vào nội địa thì lượng mưa càng
giảm dần.
11. Tài nguyên thiên nhiên
Dầu mỏ, khí đốt, thiếc, columbit (khoáng vật màu đen, ánh á kim, khoáng quặng chủ yếu của
nguyên tố niobi), quặng sắt, chì, kẽm, than đá, đá vôi.
12. Môi trường:
Nạn phá rừng; đất bị bạc màu; sa mạc hóa; nạn hạn hán ở miền Bắc làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến nông nghiệp ở các vùng đất nghèo.
II. Lịch sử Nigeria:
- Nigeria ra đời khoảng thế kỷ 11 trước Công nguyên với Vương quốc Borno ở miền
Bắc, Vương quốc Haussa ở miền Tây và Vương quốc Yoruba ở miền Nam. Đến thế
kywr 16, các Vương quốc này đã tương đối phát triển và có giao lưu với Châu Âu.
Năm 1849, đế quốc Anh xâm chiếm Nigeria, và đến năm 1914 đặt toàn bộ l;ãnh thổ
Nigeria dưới sự cai trị chung của toàn quyền Anh. Từ năm 1920, nhất là sau chiến
tranh thế giới II, phong trào đấu tranh đòi độc lập của nhân dân Nigeria nổi lên mạnh
mẽ. Trước tình hình đó, Anh buộc phải để cho Nigeria được tự trị.
- Ngày 1/10/1960 Nigeria được trao trả độc lập. Ông Abukaba Towoga Balawa làm
Thủ tướng đầu tiên. Ba năm sau (1/10/1960) Nigeria tuyên bố láy tên nước là Cộng
hòa Liên bang Nigeria, nằm trong khối liên hiệp Anh.
III. Chính trị
Chính thể Cộng hòa Tổng thống.
Khu vực hành chính 36 bang và 1 địa hạt thủ đô liên bang.
Hiến pháp Ban hành năm 1979, sửa đổi năm 1998.
Cơ quan hành pháp Đứng đầu Nhà nước và Chính phủ Chủ tịch Hội đồng cầm quyền
lâm thời kiêm Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Tổng thống được bầu theo phổ
thông đầu phiếu, nhiệm kì 4 năm (không quá hai nhiệm kì).
Cơ quan lập pháp Quốc hội lưỡng viện: Thượng nghị viện gồm 109 thành viên, mỗi
bang 3 thành viên và một thành viên dành cho vùng thủ đô liên bang, được bầu theo
phổ thông đầu phiếu, nhiệm kì 7 năm. Hạ nghị viện gồm 360 thành viên, được bầu theo
phổ thông đầu phiếu, nhiệm kì 7 năm.
Cơ quan tư pháp Tòa án Tối cao, các thẩm phán do Hội đồng cầm quyền lâm thời bổ
nhiệm; Tòa thượng thẩm liên bang, các thẩm phán do Chính phủ liên bang bổ nhiệm
dựa trên tư vấn của Ủy ban tư vấn các quan tòa.
Chế độ bầu cử Từ 18 tuổi trở lên, phổ thông đầu phiẽu.
Tham gia các tổ chức quốc tế ACP, AfDB, AU, C, ECOWAS, FAO, G-15, G-24, G-
77, IAEA, IBRD, ICAO, ICC, ICCt, ICRM, IDA, IDB, IFAD, IFC, IFRCS, IHO, ILO,
IMF, IMO, IMSO, Interpol, IOC, IOM , IPU, ISO, ITSO, ITU, ITUC, MIGA,
MINURSO, MONUC, NAM, OAS (quan sát viên), OIC, ONUB, OPCW, OPEC, PCA,
UN, UNCTAD, UNESCO, UNHCR, UNIDO, UNITAR, UNMEE, UNMIL, UNMIS,
UNMOVIC, UNOCI, UNWTO, UPU, WCO, WFTU, WHO, WIPO, WMO, WTO
Nigeria theo chế độ đa đảng, có quốc hội lưỡng viện, Tổng thống đồng thời là người
đứng đầu chính phủ. Không có nguyên thủy quốc gia vì hiện nay Nigeria nằm trong khối
liên hiệp Anh.
Đảng phái chính trị : Đảng dân chủ nhân dân (PDP) – Đảng của tổng thống Obasanjo,
Đảng Toàn dân ( All people Party), Đảng liên minh vì dân chủ (Aliance for Democacy),
và một số Đảng khác.
Tình hình hiện nay:
Sau khi ông Abacha mất vào tháng 6/1998, tướng Abdul Salam Abubakar, Tổng tư lệnh
lực lượng vũ trang nhận chức và thành lập nội các mới gồm cả thành phần dân sự và quân
sự. Tháng 12/1998 tiến hành bầu cử chính quyền địa phương và tháng 2/1999 bầu cử
quốc hội , Đảng dân chủ nhân dân (PDP) của ông Olusegun Obasanjo ( tướng về hưu)
giành thắng lợi lớn (181/360 đại biểu quốc hội và 56/109 Thượng nghị sĩ). Cũng trong
năm 1999, Hiến pháp mới được thông qua.
Ngày 27/2/1999 đã diễn ra tổng tuyển cử bầu tổng thống theo chế độ dân chủ đa đảng.
Ông olusegun Obasanjo trúng cử và tái đắc cử tổng thống trong cuộc bầu cử tháng
4/2003 với 61,9% số phiếu bầu. Theo quy định của Hiến pháp, Tổng thống không có
quyền tranh cử quá 2 nhiệm kỳ. Tháng 4/2007, Nigeria tổ chức bầu cử Tổng thống mới.
Tháng 5/2007, ông Umaru Yar Adua trứng cử Tổng thống với 70% số phiếu bầu, đánh
dấu việc lần đầu tiên một chính quyền dân sự cầm quyền thay thế cho chính quyền quân
sự trước đây.
Quốc hội Nigeria:
Quốc hội Nigeria có hai viện là Thượng viện và Hạ viện. Thông thường, Hạ viện đại diện
cho toàn thể nhân dân ở một quốc gia, còn Thượng viện đại diện cho các vùng, các tiểu
bang nhằm bảo đảm sự đa dạng trong một thực thể thống nhất. M ối quan hệ giữa liên
bang và các tiể bang thể hiện qua thành phần trong Thượng viện Nigeria.
Mỗi tiểu bang có số lượng nghị sỹ bằng nhau mà không phụ thuộc vào dân số của mình.
Quy định này đã góp phần cân bằng quyền lực giữa các tiểu bang. Các thượng nghị sỹ
của Quốc hội liên bang do nghị viện các tiểu bang bầu theo đề cử của Thống đốc bang.
Do đó, có thể nói cơ chế đại diện ở Nigeria phản ánh lợi ích của chính quyền tiểu bang
hơn là đại diện trực tiếp cho dân cư của tiểu bang.
Thượng viện Nigeria là một thiết chế thu hút sự tham gia của các vùng địa phương vào
các vấn đề quốc gia, bởi lẽ các thượng nghị sỹ đều là thành viên của các chính đảng. Điều
này góp phần làm cho chế độ liên bang ở Nigeria có sức sống hơn so với nhiều nước, nơi
quyền lực tập trung nhiều ở chính quyền liên bang. Ngoài ra, cũng giống như ở nhiều
nước đang phát triển, Thượng viện Nigeria bao gồm đại diện của cả các tầng lớp bình
dân, các nhóm thiểu số.
Vốn nằm dưới quyền bảo hộ của Anh, Thượng viện Nigeria có đặc điểm giống với
Thượng viện Anh ở chỗ cơ quan này chỉ thực quyền trong việc sửa đổi các đạo luật về
ngân sách, tài chính. Khi có khác biệt giữa hai viện trong khi xem xét các dự luật về ngân
sách, tài chính, Chủ tịch Thượng viện thành lập Ủy ban Tài chính hỗn hợp để xem xét dự
luật đó. Nếu Ủy ban Tài chính hỗn hợp vẫn không giải quyết được mâu thuẫn, hai viện sẽ
họp chung để tìm giải pháp dung hòa. Đối với các đạo luật khác, Thượng viện Nigeria chỉ
có thẩm quyền trì hoãn việc thông qua trong 6 tháng. Ngược với đặc điểm nói trên, đặc
điểm này hạn chế sự tham gia của các tiểu bang vào các vấn đề của liên bang. Nó biến
Thượng viện thành cơ quan có tính tư vấn hơn là cơ quan lập pháp. Tuy nhiên, Thượng
viện có tiếng nói khá quan trọng trong việc sửa đổi Hiến pháp và có thể đệ trình dự luật.
Trong trường hợp dự luật xuất phát từ Thượng viện, nó phải được Hạ viện xem xét và
thông qua trước khi chuyển cho Tổng thống ký ban hành.
Hơn nữa, Thượng viện Nigeria cũng bị tách rời khỏi quyền lực thực tế khi Chính phủ chịu
trách nhiệm trước Hạ viện như ở Anh chứ không phụ thuộc vào Thượng viện, thậm chí bộ
trưởng phải đồng thời là hạ nghị sỹ . Tuy nhiên, Thượng viện có quyền phê chuẩn ứng viên
vào các ghế bộ trưởng do Tổng thống đề xuất. Chủ tịch Thượng viện cũng có vai trò khá
quan trọng trong quá trình luận tội Tổng thống hoặc Phó Tổng thống. Bởi Chủ tịch Thượng
viện có thẩm quyền như t iếp nhận kiến nghị luận tội, yêu cầu Chánh án Tòa án Tối cao thành
lập Ban hội thẩm để điều tra. Còn trong trường hợp Tổng thống có vấn đề về sức khỏe, Chủ
tịch Thượng viện thành lập Ban hội thẩm y khoa để kiểm tra sức khỏe Tổng thống. Ngoài ra,
trong trường hợp cả chức danh Tổng thống và Phó Tổng thống đều bị trống, Chủ tịch
Thượng viện tạm giữ chức Tổng thống trong vòng ba tháng. Bên cạnh đó, Hiến pháp quy
định cho Thượng viện thẩm quyền phê chuẩn ứng viên vào các chức danh Chánh án Toà án
Tối cao Nigeria, Chánh án Toà án Thượng thẩm, Chánh án Toà án cấp cao liên bang do Tổng
thống đề xuất.
IV. Thể chế kinh tế ở Nigeria:
Khi còn là thuộc địa của Anh:
- Nền kinh tế Nigeria chỉ đơn thuần là nông nghiệp trì trệ. Khi Anh xâm chiếm Nigeria
để mở rộng thị trường đã xây dựng nền tảng cho kinh tế Nigeria là ngành công nghiệp
khai thác mỏ.
- Những người dân Nigeria trở thành nô lệ cho các hầm mỏ, nhà máy của Anh.
Khi Nigeria giành được độc lập:
Sau những phong trào đấu tranh giành tự do ở Châu Á và Châu Mỹ La Tinh lan rộng đến
Châu Phi đã buộc Anh phải trao trả độc lập cho Nigeria vào năm 1960, Từ đây nền kinh
tế Nigeria đã bước sang một trang sử mới, được chia thành 3 giai đoạn như sau:
1. Giai đoạn 1: Từ năm 1960- 1998
Đây là giai đoạn Nigeria nằm dưới sự cai trị của chính phủ quân sự độc tài.
1.1 Từ năm 1960- 1970: Đây là giai đoạn Nigeria có sự bất ổn về chính trị, nội chiến.
- Chính phủ Nigeria ban hành Luật Mỏ theo đó chỉ chính phủ mới có quyền can thiệp
vào khu vực này, không cho công ty nào được tham gia khai thác.
- Trong giai đoạn này chính phủ Niegria can thiệp sâu vào nền kinh tế.
- Nền kinh tế bị suy thoái và giảm sút
1.2 Những năm 1970 - 1980: Khủng hoảng dầu mỏ diễn ra
- Nigeria là nước xuất khẩu dầu mỏ nên thu được nhiều ngoại tệ Nigeria nổi lên như
mẫu hình dân cư và kinh tế phát triển.
- Năm 1971 Nigeria tham gia vào tổ chức dầu mỏ OPEC và trở thành một nước sản
xuất dầu thứ 2 khu vực Châu Phi sau LiBi và đứng thứ 6 trên thế giới.
- Nigeria không đi theo thể chế kinh tế tự do hóa thương mại cũng như cạnh tranh bình
đẳng.
- Những năm 1980, Nigeria đã không sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên dầu mỏ. Từ
năm 1980 – 1990 thu nhập bình quân đàu người : 290 USD trong khi các nước hạ
Sahara là 490 USD/ người/năm.
1.3 Những năm 1990: Đây là giai đoạn giá dầu mỏ trên thị trường giảm sút và những bất
ổn chính trị xã hội trong nước.
- Trong giai đoạn này tăng trương Nigeria chậm lại bình quân 2%/ năm
- Năm 1991 các nước ECOWAS đã điều chỉnh mức thuế hải quan trong nội bộ khu vực
xuống còn 25% đối với 91 mặt hàng.
- Luật thuế quan ( cho các hàng hóa bán phá giá và các hàng hóa được bảo hộ) năm
1958 của Nigeria cho phép áp dụng một loại thuế đặc biệt đánh vào bất cứ hàng hóa
nào bị coi là bán phá giá hay được tổ chức và chính phủ bên ngoài lãnh thổ Nigeria
bảo hộ. Năm 1991, luật này đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các điều khoản
đa phương mà Nigeria tham gia ký kết. Các điều khoản của đạo luật này sẽ được sử
dụng khi xuất hiện nguy cơ đe dọa các ngành công nghiệp mũi nhọn hay tiềm năng
của Nigeria, nếu việc áp dụng không trái với các cam kết của Ngeria trong bất cứ thỏa
thuận quốc tế nào.
- Những mặt hàng được miễn thuế gồm: thuốc men, dược phẩm, sách báo, tạp chí, văn
phòng phẩm, và các sản phẩm dành cho trẻ em. Các nguyên liệu thô nhập khẩu để
làm hàng xuất khẩu được miễn thuế hải quan, thuế tiêu thụ đặc biệt và các loại thuế
khác.
- Trợ cấp và giảm thuế: Các nhà sản xuất, chế tạo được miễn giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp trong 5 năm đầu hoạt động với điều kiện trị giá xuất khẩu của các nhà sản xuất
này phải đạt ít nhất 50% doanh số của mình.Để được hưởng sự ưu đãi này, nhà sản
xuất phải gửi đơn xin trợ cấp hay giảm thuế và những chứng từ thể hiện trị giá và số
lượng sản phẩm trong vòng 3 năm liên tục tới NEPC. NEPC sẽ xem xét và quyết định
có trợ cấp hay giảm thuế cho nhà sản xuất hay không, trợ cấp, giảm thuế bao nhiêu
%.
- Các doanh nghiệp chuyên sản xuất các bộ phận, nguyên liệu… làm hàng xuất khẩu
cũng được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây chính là các biện pháp nhằm
khuyến khích và hỗ trợ xuất khẩu.
- Hoàn thuế: Để khuyến khích và hỗ trợ xuất khẩu, nhà xuất khẩu Nigeria có thể được
hoàn thuế nhập khẩu, phụ thuế cũng như thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp khi nhập khẩu
nguyên liệu đầu vào để làm hàng xuất khẩu, bằng cách gửi đơn xin hoàn thuế cho ủy
ban hoàn thuế của Ủy ban Xúc tiến xuất khẩu Nigeria. Muốn được hoàn thuế phải có
xác nhận của Ngân hàng trung ương về việc thu hồi thu nhập từ xuất khẩu. Theo
nguyên tắc thì số tiền thuế hoàn lại không được vượt quá số thuế đã nộp.
2. Giai đoạn 2: Từ năm 1999- 2007
2.1. Những thay đổi trong chính sách phát triển kinh tế:
- Nền kinh tế Nigeria bắt đầu phục hồi những bước tiến mới và Nigeria đã bắt đầu
chuyển sang chế độ dân sự.
- Khi Obasanjo lên làm tổng thống đã thay đổi nhiều chính sách, đạo luật, cải thiện đời
sống của người dân đặc biệt ông đã tiến hành điều tra nhiều vụ vi phạm nhân quyền
trong quân đội Nigeria, phóng thích tù chính trị, và nhiều vụ tham nhũng.
- Ban hành Luật Mỏ mới cho phép khu vực tư nhân được tham gia khai thác
- Chính phủ Nigeria đã thực hiện một số cải cách như: đẩy mạnh tư nhân hóa, bỏ dần
trợ cấp và đấu tranh chống tham nhũng.Trong năm 2000 - 2001, chính phủ đã thực
hiện thành công tư nhân hóa một số công ty do nhà nước sở hữu.
- Năm 2001, Chính phủ Nigeria đã giảm mức thuế đánh vào hàng nguyên vật liệu, thiết
bị vốn và hàng thành phẩm, ngoài ra còn giảm thuế cho những mặt hàng như: máy
nông nghiệp, bông, sợi tổng hợp, giấy in báo,vải, máy công nghiệp,xe ô tô và hóa
chất. Nhưng trong năm 2001, Chính phủ lại tăng mức thuế lên cao đối với hàng nông
sản và hàng tiêu dùng khác . Ví dụ : mức thuế nhập khẩu đối với ngô là 80%, gạo
85%
- Về thuế quan ưu đãi: ở Nigeria không có các loại thuế quan ưu đãi nhưng Nigeria đã
tham gia công ước Lome về vấn đề dành ưu đãi trong khai hải quan đối với những
hàng hóa vào các nước EU.
- Xây dựng chế độ thuế ưu đãi cho các nhà đầu tư, thúc đẩy các thủ tục kí kết hợp đồng
khai thác, thăm dò.
- Ban hành đạo luật tái thiết cấu trúc mỏ.
- Lập các dự án lớn phát triển quy mô việc làm.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Cải cách kinh tế theo hướng tự do và cam kết sử dụng hiệu quả các khoản vay.
- Ông Obasanjo tái đắc cử tổng thống lần thứ 2 vào năm 2003,ông đã khởi xướng
những chương trình cải tổ nền kinh tế Nigeria thông qua một số chính sách do nhà
nước ban hành như: Chiến lược phát triển và trao quyền kinh tế quốc gia (NEEDS)
để nhằm giải quyết tình trạng nghèo đói.
- Vào năm 2006, Nigeria trả khoản nợ 4,5 tỉ USD cho câu lạc bộ Pairs, và trở thành
quốc gia đầu tiên của châu Phi giải quyết món nợ quốc tế.
- Ngày nay, bất chấp giá dầu đang ở mức cao, đất nước này quyết định giảm sản lượng
dầu quốc gia, vốn đã bị giảm 40% vào tháng 4/2008 vì bạo lực giữa các nhóm vũ
trang ở khu vực đồng bằng sông Niger, vựa dầu lớn của đất nước. Đây được coi là
một bước đi khá táo bạo đối với đất nước mà 90% nguồn thu ngoại tệ có được nhờ
“vàng đen”.
- Giai đoạn này vẫn tiếp tục duy trì những quy định về miễn thuế, hoàn thuế, trợ cấp và
giảm thuế.
- Hiện nay để kiểm soát tình trạng trốn thuế tràn lan, Nigeria đã thực hiện việc giám
sát, kiểm tra 100% hàng hóa nhập khẩu. Hàng nhập khẩu Nigeria phải chịu phụ phí
1% để trang trải chi phí giám sát, kiểm tra. Hạn chế: Thủ tục rườm rà này làm trở
ngại hoạt động thương mại, gây tốn kém và mất thời gian, gây trở ngại cho quá trình
lưu thông hàng hóa.
- Các quy định về nhập khẩu:
Cấm nhập khẩu: Theo báo cáo của Tổng giám đốc ( cơ quan) Trung tâm Phát
triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nigeria (SMEDAN), thì tính đến
9/2004, Nigeria vẫn còn 33 mặt hàng bị cấm nhập khẩu. Nhiều mặt hàng trước
đây nằm trong danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu thì nay được phép như: lúa
mì và các sản phẩm từ lúa mì, gạo và các sản phẩm từ gạo, rượu sủi tăm,
champagne, nước trái cây, trái cây tươi hay khô.
Giấy phép nhập khẩu: Ở Nigeria, giấy phép nhập khẩu thông thường đã bãi bỏ
từ năm 1986. Việc nhập khẩu hàng hóa bị hạn chế cần phải có giấy phép
riêng. VD: Giấy phép nhập khẩu các sản phẩm dầu khí do bộ năng lượng toàn
quốc cấp; giấy phép nhập khẩu thuốc lá do Hải quân cấp. Để có thể nhập khẩu
những hàng hóa thuộc danh mục hàng cấm nhập khẩu thì nhất thiết phải có
được giấy phép của người đúng đầu bang ( thống đốc bang).
Hoạt động bảo hộ: Mặc dù đã gia nhập WTO nhưng Nigeria vẫn c