Tiểu luận Phân tích lợi thế cạnh tranh mặt hàng giày dép Việt Nam xuất khẩu sang Chile

Mục tiêu tới năm 2010 của ngành da giày Việt Nam là sản xuất 720 triệu đôi giày dép các loại; 80,7 triệu chiếc cặp túi xách và 80 triệu m2 da thuộc thành phẩm, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành lên tới 6,5 tỷ USD. Ngành công nghiệp da giày Việt Nam là một trong những ngành công nghiệp có lợi thế xuất khẩu, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam là nước đứng thứ thứ 4 thế giới về xuất khẩu da giày sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italy. Năm 1992, ngành da giày đã xuất khẩu được 5 triệu USD và liên tục tăng trưởng. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu da giày sau 10 năm đã tăng 369,2 lần, đạt tốc độ tăng trửơng cao nhất so với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác. Từ năm 2004 đến nay, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu da giày đứng thứ 4 thế giới sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italy. Năm 2006, trước tình hình sản xuất kinh doanh có nhiều biến động do ảnh hưởng của các vụ kiện bán phá giá các loại giày mũ da xuất khẩu vào thị trường các nước châu Âu (EU) nhưng ngành da giày vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao, mở rộng được thị trường Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương, năm 2006, kim ngạch xuất khẩu da giày cả nước đạt khoảng 3,56 tỷ USD, tăng 16,9% so với năm 2005, đã vượt 6,1% so với kế hoạch (3,35 tỷ USD). Trong số các thị trường xuất khẩu thì EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành da giày Việt Nam bởi khối lượng tiêu dùng cao và đây là vùng khí có khí hậu hàn đới, thời tiết quanh năm lạnh nên nhu cầu về da giày rất lớn. Hàng năm, 90% sản phẩm do ngành sản xuất được xuất khẩu sang các thị trường quốc tế, trong đó EU chiếm 70% thị phần, Mỹ 20% thị phần, Nhật Bản 3% thị phần, Việt Nam là nước đứng thứ 3 sau Trung Quốc và Inđônêxia về xuất khẩu giày dép vào EU. Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của ngành da giày Việt Nam, chỉ tính riêng năm 2006, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang Mỹ đạt 802 triệu USD, tăng 31% so với 2005, chiếm 22% kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương kim ngạch xuất khẩu giày dép của Inđônêxia vào thị trường Hoa Kỳ năm 2004 giảm 13,5% so với năm 2003 và 32,2% so với năm 2002; kim ngạch xuất khẩu giày dép cuả Thái Lan vào thị trường Mỹ chỉ đạt 292 triệu USD, giảm so với 315 triệu USD năm 2001. Với thực tế trên, đây sẽ là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp sản xuất giày dép của Việt Nam phát triển mạnh trong thời gian tới. Tuy là một ngành có tốc độ tăng trưởng cao, đứng thứ 3 về kim ngạch xuất khẩu, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhưng hiện tại, ngành da giày cũng đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển. Đặc biệt là mức thuế bán phá giá 10% mà EU đánh vào giày dép Việt Nam đã khiến các doanh nghiệp da giày bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì vậy, các doanh nghiệp da giày Việt Nam cần rút kinh nghiệm sâu sắc từ vụ kiện bán phá giá, nâng cao hơn nữa tinh thần đoàn kết và tăng cường học hỏi. Ngoài ra, các doanh nghiệp luôn phải trang bị cho mình kiến thức để hiểu biết luật lệ, hoàn chỉnh hệ thống sổ sách kế toán theo thông lệ quốc tế, không để phía nước ngoài tạo cớ ép giá, ảnh hưởng đến giá trị của các sản phẩm xuất khẩu. Việt Nam đã tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ngành da giày cũng cần đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, đổi mới thiết bị và công nghệ để thu hút khách hàng. Đây sẽ là điểm tựa vững chắc và quan trọng để đứng vững trên trường quốc tế. Một trong những điểm yếu tồn tại từ rất lâu của ngành là bị động về nguồn nguyên liệu. Nguyên phụ liệu phần lớn đều phải nhập khẩu từ nước ngoài với giá thành cao nên ảnh hưởng đến giá trị gia tăng trong kim ngạch xuất khẩu của ngành. Tuy kim ngạch xuất khẩu của ngành rất cao nhưng hiệu quả kinh tế thấp, giá trị gia tăng chỉ đạt 25%.

doc27 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3115 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích lợi thế cạnh tranh mặt hàng giày dép Việt Nam xuất khẩu sang Chile, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM KHOA THƯƠNG MẠI – DU LỊCH – MARKETING ((((((( ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH MẶT HÀNG GIÀY DÉP VIỆT NAM XUẤT KHẨU SANG CHILE Giáo viên hướng dẫn: Th.S QUÁCH THỊ BỬU CHÂU Nhóm sinh viên: NGUYỄN XUÂN KIM LONG ĐÀO ANH THY TRẦN HẠNH CHƯƠNG NGUYỄN THỊ THUỲ AN Lớp: Ngoại Thương 2 – K32 TP HCM: 10 – 2008 MỤC LỤC Trang Lời mở đầu 3 I. Tình hình xuất khẩu giày dép Việt Nam 4 II. Tình hình nhập khẩu giày dép ở Chile 5 III. Yếu tố cạnh tranh của giày dép Việt Nam 8 IV. Cầu về mặt hàng giày dép ở Chile 14 V. Các ngành công nghiệp hỗ trợ 18 VI. Tổ chức, chiến lược công ty và sự cạnh tranh 21 Lời kết 26 Tài liệu tham khảo 27 Lời mở đầu Hội nhập vào thế giới là xu hướng tất yếu của một quốc gia. Hội nhập luôn mang lại những cơ hội phát triển cùng với những thách thức, khó khăn cho một quốc gia. Và đối với các ngành công nghiệp, các công ty trong quốc gia đó cũng không ngoại lệ. Các công ty, các nhà doanh nghiệp trong nước ngoài việc được hưởng các cơ hội do xu thế toàn cầu hoá mang lại như: công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý của thế giới … thì còn có những thách thức, những sự cạnh tranh gay gắt đến từ các công ty nước ngoài. Vì vậy, mà các công ty trong nước hiện nay đang đẩy mạnh đầu tư và xuất khẩu ra nước ngoài, tăng trưởng thị phần, một mặt là để bảo vệ họ tránh khỏi những rủi ro và sự không ổn định của chu kỳ kinh doanh nội địa, mặt khác là để đói phó với sự gia tăng cạnh tranh trên thế giới. Với mục tiêu trên, hiện nay, các ngành công nghiêp ở Việt Nam đang gia tăng xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là các ngành công nghiệp chủ lực: da-giày, dệt may… Giá trị xuất khẩu mặt hàng giày, dép ở Việt Nam trong những năm gần đây luôn dẫn đầu trong bảng giá trị xuất khẩu. Và thị trường nhập khẩu là những quốc gia ở Nam Mỹ, đặc biệt là thị trường Chile được các nhà chuyên môn đánh giá là thị trường tiềm năng với quan hệ tốt đẹp của chính phủ hai bên. I. Tình hình xuất khẩu giày dép Việt Nam: Mục tiêu tới năm 2010 của ngành da giày Việt Nam là sản xuất 720 triệu đôi giày dép các loại; 80,7 triệu chiếc cặp túi xách và 80 triệu m2 da thuộc thành phẩm, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành lên tới 6,5 tỷ USD. Ngành công nghiệp da giày Việt Nam là một trong những ngành công nghiệp có lợi thế xuất khẩu, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam là nước đứng thứ thứ 4 thế giới về xuất khẩu da giày sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italy. Năm 1992, ngành da giày đã xuất khẩu được 5 triệu USD và liên tục tăng trưởng. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu da giày sau 10 năm đã tăng 369,2 lần, đạt tốc độ tăng trửơng cao nhất so với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác. Từ năm 2004 đến nay, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu da giày đứng thứ 4 thế giới sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italy. Năm 2006, trước tình hình sản xuất kinh doanh có nhiều biến động do ảnh hưởng của các vụ kiện bán phá giá các loại giày mũ da xuất khẩu vào thị trường các nước châu Âu (EU) nhưng ngành da giày vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao, mở rộng được thị trường… Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương, năm 2006, kim ngạch xuất khẩu da giày cả nước đạt khoảng 3,56 tỷ USD, tăng 16,9% so với năm 2005, đã vượt 6,1% so với kế hoạch (3,35 tỷ USD). Trong số các thị trường xuất khẩu thì EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành da giày Việt Nam bởi khối lượng tiêu dùng cao và đây là vùng khí có khí hậu hàn đới, thời tiết quanh năm lạnh nên nhu cầu về da giày rất lớn. Hàng năm, 90% sản phẩm do ngành sản xuất được xuất khẩu sang các thị trường quốc tế, trong đó EU chiếm 70% thị phần, Mỹ 20% thị phần, Nhật Bản 3% thị phần, Việt Nam là nước đứng thứ 3 sau Trung Quốc và Inđônêxia về xuất khẩu giày dép vào EU. Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của ngành da giày Việt Nam, chỉ tính riêng năm 2006, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang Mỹ đạt 802 triệu USD, tăng 31% so với 2005, chiếm 22% kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương kim ngạch xuất khẩu giày dép của Inđônêxia vào thị trường Hoa Kỳ năm 2004 giảm 13,5% so với năm 2003 và 32,2% so với năm 2002; kim ngạch xuất khẩu giày dép cuả Thái Lan vào thị trường Mỹ chỉ đạt 292 triệu USD, giảm so với 315 triệu USD năm 2001. Với thực tế trên, đây sẽ là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp sản xuất giày dép của Việt Nam phát triển mạnh trong thời gian tới. Tuy là một ngành có tốc độ tăng trưởng cao, đứng thứ 3 về kim ngạch xuất khẩu, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhưng hiện tại, ngành da giày cũng đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển. Đặc biệt là mức thuế bán phá giá 10% mà EU đánh vào giày dép Việt Nam đã khiến các doanh nghiệp da giày bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì vậy, các doanh nghiệp da giày Việt Nam cần rút kinh nghiệm sâu sắc từ vụ kiện bán phá giá, nâng cao hơn nữa tinh thần đoàn kết và tăng cường học hỏi. Ngoài ra, các doanh nghiệp luôn phải trang bị cho mình kiến thức để hiểu biết luật lệ, hoàn chỉnh hệ thống sổ sách kế toán theo thông lệ quốc tế, không để phía nước ngoài tạo cớ ép giá, ảnh hưởng đến giá trị của các sản phẩm xuất khẩu. Việt Nam đã tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ngành da giày cũng cần đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, đổi mới thiết bị và công nghệ để thu hút khách hàng. Đây sẽ là điểm tựa vững chắc và quan trọng để đứng vững trên trường quốc tế. Một trong những điểm yếu tồn tại từ rất lâu của ngành là bị động về nguồn nguyên liệu. Nguyên phụ liệu phần lớn đều phải nhập khẩu từ nước ngoài với giá thành cao nên ảnh hưởng đến giá trị gia tăng trong kim ngạch xuất khẩu của ngành. Tuy kim ngạch xuất khẩu của ngành rất cao nhưng hiệu quả kinh tế thấp, giá trị gia tăng chỉ đạt 25%. II. Tình hình nhập khẩu giày dép ở Chile: Theo ông Pedro Berenstein, người đứmg đầu của Feddeccal (Hiệp hội giày da Chile), trong 2006 đã có hơn 60,5 triệu đôi giày được nhập khẩu vào Chile bởi hơn 1300 công ty nội địa. Trong khi đó thì nguồn cung ứng trong nước với khoảng 23 nhà máy mà 80% tập trung tại thủ đô Santiago chỉ sản xuất được 11 triệu đôi/năm. Vì vậy nguồn cung cấp giày dép ở Chile vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu là chủ yếu. Theo nghiên cứu về thị trường giày dép Chile thì Cơ quan Phát triển Ngoại thương Malaysia (MATRADE) năm 2006 thì tình hình nhập khẩu giày dép tại Chile như sau: Trong năm 2006, Chile đã nhập khẩu lượng giày dép có tổng giá trị là 373,7 triệu Đôla Mỹ, tăng 22,3% so với năm 2005 là 305,6 triệu Đôla Mỹ. Các nhà cung cấp giày dép cho Chile hầu hết là từ các quốc gia Châu Á mà điển hình là Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan, Indonesia, Thái Lan và Hồng Kông. Trong đó, quốc gia xuất khẩu giày dép sang Chile lớn nhất là Trung Quốc với thị phần chiếm đến 60% trong năm 2006, một con số áp đảo hoàn toàn so với các đối thủ cạnh tranh khác. Mặc dù Chile chỉ mới ký kết Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Trung Quốc vào năm 2005, nhưng trong 10 năm trở lại đây, Trung Quốc đã tăng thị phần của mình lên 50%. Thế mạnh là những đôi giày bình dân với giá dao động từ 4 – 5 Đôla Mỹ/đôi. Đứng thứ hai sau Trung Quốc về thị phần là Brazil với những nhãn hiệu như Azaleia và Via Uno. Và với một ngành công nghiệp mạnh mẽ hiện nay, Brazil vẫn được kỳ vọng là một trong những nhà cung cấp giày dép chính cho thị trường Chile. Và trong số đó không thể bỏ qua Việt Nam. Với việc gia tăng giá trị xuất khẩu thêm 48,4%, Việt Nam đã đạt một kỷ lục về tăng trưởng thị phần tại Chile: 29,7 triệu Đôla Mỹ năm 2006 so với 20 triệu Đôla Mỹ năm 2005. Malaysia cũng có những bước thăng hạng vượt bậc khi từ hàng thứ 23 vươn lên hàng thứ 20 trong danh sách các nhà cung cấp giày dép chính sang Chile. Giá trị xuất khẩu tăng 33,1% đạt 0,41 triệu Đôla Mỹ. Đặc điểm của giày dép từ Malaysia là hầu như đa số sản phẩm đều mang những thương hiệu nổi tiếng trên thế giới như Nike và Puma. Qua trên, ta có thể thấy Chile là một thị trường tiêu thụ giày dép rất năng động, có nhiều nguồn cung ứng sản phẩm với rất nhiều chủng loại, nhãn hiệu và giá cả. Vì vậy sự cạnh tranh sẽ rất gay gắt. Và đề thâm nhập cũng như mở rộng thị phần tại thị trường này, các quốc gia, doanh nghiệp cũng cần phải có một kế hoạch, chiến lược cụ thể thích hợp như việc nghiên cứu nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng, ký kết các thoả thuận hợp tác, tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh, các chính sách hỗ trợ… Giày dép xuất khẩu vào Chile từ các quốc gia Hạng  Quốc gia  2006 US$ CIF  Tăng trưởng  Thị phần  2005 US$ CIF  Thị phần   1  TRUNG QUỐC  252,595,506  26.53%  67.59%  199,638,033  65.32%   2  BRASIL  36,943,137  1.86%  9.89%  36,268,778  11.87%   3  VIỆT NAM  29,671,946  48.39%  7.94%  19,995,901  6.54%   4  ARGENTINA  13,976,560  23.11%  3.74%  11,352,858  3.71%   5  INDONESIA  9,324,331  -4.44%  2.49%  9,757,351  3.19%   6  ĐÀI LOAN  5,314,158  20.64%  1.42%  4,405,019  1.44%   7  HONG-KONG  4,342,548  7.39%  1.16%  4,043,782  1.32%   8  THÁI LAN  3,313,526  10.63%  0.89%  2,995,202  0.98%   9  TÂY BAN NHA  2,546,939  14.88%  0.68%  2,217,117  0.73%   10  Ý  1,908,907  3.59%  0.51%  1,842,716  0.60%   20  MALAYSIA  411,350  33.10%  0.11%  309,051  0.10%    Tổng  373,724,283  22.29%  100.00%  305,613,381  100.00%   Nguồn: Lexis Nexis theo nghiên cứu của MATRADE năm 2006 Nhìn chung xuất khẩu giày dép đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam, đem lại một nguồn ngoại tệ to lớn cho quốc gia. Như đã đề cập ở trên, sau 10 năm từ năm 1992, kim ngạch xuất khầu giày dép Việt Nam đã tăng 369,2 lần, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất so với các ngành khác. Đó là một thành tựu đáng khích lệ của ngành da giày Việt Nam. Và trong thời kì hội nhập kinh tế mạnh mẽ, áp lực cạnh tranh từ các đối thủ trên các thị trường lớn ngày càng tăng lên. Vì thế nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển đa dạng thị trường xuất khẩu là yêu cầu thiết yếu trong tương lai. Và Chile là một điểm dừng chân hấp dẫn cho Việt Nam. Trong những năm qua, như chúng ta đã thấy mặc hàng giày dép luôn là mặc hàng có giá trị xuất khẩu cao nhất vào Chile, kim ngạch xuất khẩu của giày dép Việt Nam vào thị trường này tăng liên tục. Năm 2006 Chile là thị trường đứng thứ 5 nhập khẩu giày dép từ Việt Nam. Mối quan hệ giữa hai nước ngày càng tốt đẹp tạo điều kiện thuận lợi cho hai nước đẩy mạnh hoạt động kinh tế, và Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường đầy tiềm năng này. III. Các yếu tố cạnh tranh của giày dép Việt Nam: A. Yếu tố cơ bản: 1. Lao động: 1.1 Nguồn cung lao động: Đặc điểm nguồn nhân lực Việt Nam: Nguồn nhân lực Việt Nam, gồm những người nằm trong độ tuổi lao động: Nam từ 15 – 60; nữ từ 15 – 55 tuổi đã được Bộ Luật Lao động quy định, có 42 triệu người, trong đó, thành thị 10 triệu người, nông thôn 32 triệu người. Cơ cấu nguồn nhân lực: Nhóm trẻ, từ 15 – 34 tuổi chiếm hơn 50%; nhóm người ở độ tuổi trung niên từ 35 – 54 tuổi chiếm hơn 42%. Số nhân lực cao tuổi chiếm khoảng 7%. Nguồn nhân lực trẻ gắn với những điểm mạnh như sức khỏe tốt, năng động, dễ tiếp thu cái mới, nắm bắt công nghệ nhanh, di chuyển dễ dàng. Nếu được học văn hóa, đào tạo nghề, họ sẽ phát huy tác dụng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mỗi năm cả nước có trên dưới 200.000 sinh viên các trường đại học và cao đẳng ra trường, đây là nguồn cung cấp nhân lực có chất xám dồi dào cho xã hội, trong đó, có doanh nghiệp. Lực lượng lao động Việt Nam được giáo dục tốt và có tinh thần làm việc tích cực. Độ tuổi trung bình của công nhân là 24 và ngày càng có nhiều người trong độ tuổi lao động có khả năng làm việc bằng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai, phần lớn là nhờ sự xuất hiện của nhiều trung tâm tiếng Anh. Những năm vừa qua, thị trường lao động ở nước ta đã hình thành và đang phát triển, lực lượng lao động khá dồi dào, thể hiện trên các mặt. Về cung cấp lao động cho sự phát triển thị trường trong nước và quốc tế, đến năm 2005, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chiếm 53,4% dân số (trên 44 triệu người); chất lượng cung lao động ngày càng cao, lao động qua đào tạo chiếm 25%, trong đó 19% qua đào tạo nghề. Về cầu lao động, lực lượng lao động có việc làm năm 2005 là 43,46 triệu người, chiếm 97,9%, tỷ lệ tăng trưởng việc làm là 2,67%; cơ cấu việc làm tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực, lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp chiếm 56, 79%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 17,88%, và khu vực dịch vụ chiếm 25,33%. Tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước là 2,09%, riêng khu vực thành thị là 5,31%. 1.2 Chi phí lao động: Đối với doanh nghiệp trong nước: Nhà nước quy định mức lương tối thiểu theo ba vùng: Vùng 1: Mức 620.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn các quận thuộc thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Vùng 2: Mức 580.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn các huyện thuộc thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; các quận thuộc thành phố Hải Phòng, thành phố Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh, thành phố Biên Hoà, thị xã Long Khánh, các huyện Nhơn Trạch, Long Thành, Vĩnh Cửu và Trảng Bom thuộc tỉnh Đồng Nai; thị xã Thủ Dầu Một, các huyện Thuận An, Dĩ An, Bến Cát và Tân Uyên thuộc tỉnh Bình Dương và thành phố Vũng Tàu thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Vùng 3: Mức 540.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên các địa bàn còn lại. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI: Nhà nước cũng quy định địa bàn khu vực theo 3 vùng như đối với doanh nghiệp trong nước, nhưng mức lương tối thiểu cụ thể mỗi vùng là: Vùng 1: Mức 1.000.000 đồng/tháng; Vùng 2: Mức 900.000 đồng/tháng; Vùng 3: Mức 800.000 đồng/tháng. Điều tra của JETRO cho thấy, chi phí đầu tư ở Việt Nam thấp chủ yếu do lương trả cho nhân công thuộc loại thấp nhất khu vực. Theo nhận định, đây chính là điều hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư khi có ý định đầu tư vào Việt Nam. Ví dụ: Tại Nhà máy Nghi Sơn (Thanh Hoá),. Tổng quỹ lương của 20 người Nhật làm việc trong Nhà máy này bằng tổng quỹ lương của gần 2.000 người Việt Nam làm việc ở đây. Còn ở một số dịch vụ khác như: ngân hàng, y tế... có tới 40% tổng số lao động có thu nhập từ 14.000 USD/năm trở lên thuộc người nước ngoài Chi phí thấp là một vũ khí cạnh tranh đầy mãnh lực. Doanh nghiệp Việt Nam, với lợi thế có nguồn lao động dồi dào, đơn giá rẻ, có thể sản xuất ra các sản phẩm/dịch vụ để tiêu thụ với giá cả mang tính cạnh tranh cao. Ngành da giày là ngành sử dụng nhiều lao động xã hội. Tính đến hết năm 2007, toàn ngành đã thu hút 600.000 lao động (chưa kể số lao động sản xuất trong lĩnh vực nguyên phụ liệu và lao động tại các cơ sở nhỏ, các hộ gia đình và các làng nghề có thể lên tới hơn 1 triệu lao động) chiếm 9% lực lượng lao động công nghiệp. Đây có thể được coi là lợi thế so sánh với mức chi phí nhân công thấp. Tuy nhiên, chi phí thấp (như chi phí lao động) mới chỉ là sự khởi đầu của khả năng cạnh tranh Để tăng năng lực cạnh tranh, trong thời gian tới, các Doanh nghiệp da giày Việt Nam cần tập trung xây dựng chiến lược phát triển các sản phẩm có chất lượng cao, có thương hiệu. Các Doanh nghiệp trong nước cần thoát khỏi sự bị động về thiết kế mẫu mốt, đổi mới công nghệ sản xuất giày và tổ chức lại sản xuất, tạo thế mạnh thực sự trong khâu công nghệ. Trên thực tế, những năm qua, một số doanh nghiệp da giày trong nước đã chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh bằng việc đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng thương hiệu, mở rộng thị trường xuất khẩu song song với đẩy mạnh tiêu thụ nội địa. B. Yếu tố tăng cường: 1. Đầu tư cho máy móc thiết bị: Theo Hiệp hội Da giày Việt Nam (Lefaso), các doanh nghiệp ngành da giày đã đổ dồn đầu tư vào thiết bị, công nghệ và nhà xưởng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, với tổng vốn đầu tư trong giai đoạn 2001 - 2006 đạt trên 6.500 tỷ đồng. cải tạo và xây mới trên 2 triệu m2 nhà xưởng, với tổng vốn đầu tư lên đến 3.423 tỷ đồng. Khu vực doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hầu như có đủ tiềm lực để xây mới nhà xưởng, máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn sản xuất công nghiệp với quy mô hợp lý, khép kín. Các doanh nghiệp nhà nước và các liên doanh, đầu tư theo hướng tận dụng các cơ sở hiện cóvà cải tạo từ hệ thống kho tàng cũ để hình thành nên nhà xưởng khang trang, phù hợp để bố trí thiết bị, công nghệ sản xuất giày. Chẳng hạn như Công ty giày Bita’s, một trong những đơn vị chuyên làm gia công nổi tiếng ở Tp. Hồ Chí Minh đã mạnh dạn đầu tư hơn 25 tỷ đồng để xây mới một khu sản xuất rộng hơn 25.000 ha với một dây chuyền sản xuất hiện đại nhập khẩu từ Ý và Đài Loan để thay thế cho dây chuyền sản xuất lạc hậu. Công ty giày Liên Phát (Bình Dương) lại chọn thêm hướng đầu tư vào việc tìm kiếm và khai thác nguồn nguyên liệu bằng cách đầu tư xây dựng Trung tâm nguyên phụ liệu ngay gần nhà máy để vừa phục vụ cho công ty vừa phục vụ cho các doanh nghiệp khác trong vùng. 2. Chính sách ưu đãi của chính phủ: 2.1 Chính sách về đầu tư xây dựng danh mục: Kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước, khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia đầu tư vào ngành này, trong đó ưu tiên phát triển nguồn nguyên liệu, phụ liệu cho ngành. Đầu tư mới các nhà máy chế biến da với công nghệ tiên tiến, hiện đại. Đối với các nhà máy thuộc da hiện có, đầu tư chiều sâu để hiện  đại hoá nhằm nâng cao chất lượng da thuộc cho các doanh nghiệp sản xuất giày dép; Liên kết, liên doanh với các doanh nghiệp khác để đầu tư sản xuất nguyên liệu giả da, phụ liệu cung  cấp cho ngành, giảm dần phần nhập khẩu từ nước ngoài; Khuyến khích  mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất các sản phẩm giày, dép, túi cặp để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong  nước và xuất khẩu. Xây dựng các khu công nghiệp chuyên ngành Da Giày có đủ điều kiện về hạ tầng, kỹ thuật và xử lý môi trường để kêu gọi và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tham gia đầu tư vào ngành Da Giày. 2.2 Chính sách về cung ứng lao động: Hệ thống trường đào tạo nghề sẽ được đầu tư nâng cấp dần lên ngang tầm với khu vực và thế giới. Dự kiến, sẽ có 25 trường đào tạo nghề và 10 trung tâm đào tạo được đầu tư từ nguồn vốn ODA. Ngoài ra, 30 trường trọng điểm và khoảng 100 trung tâm dạy nghề của cả nước cũng sẽ được đầu tư nâng cấp. Hoàn thiện hệ thống giao dịch của thị trường lao động bằng cách, quy hoạch và phát triển rộng khắp các cơ sở giới thiệu việc làm ở các địa phương để người lao động dễ tiếp cận. Đầu tư hiện đại hóa 3 trung tâm ở 3 vùng kinh tế trọng điểm (Bắc, Trung, Nam) đạt tiêu chuẩn các nước trong khu vực, sử dụng công nghệ thông tin hiện đại (internet, website) để thực hiện giao dịch lành mạnh, hiệu quả và chuyên nghiệp, chống tiêu cực, nhất là lừa đảo người lao động. Đa dạng hóa các kênh giao dịch trên thị trường lao động, tạo điều kiện cho các giao dịch trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động. Hình thành và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động quốc gia và nối mạng, trước hết ở các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung, cho xuất khẩu lao động; xây dựng các trạm quan sát thông tin thị trường lao động trên địa bàn cả nước để thu thập và phổ biến thông tin thị trường lao động đầy đủ, kịp thời. Tăng cường hoạt động phối hợp, phân công sản xuất trong toàn ngành theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá; Nghiên cứu và triển khai ứng dụng mô hình quắn lý tiên tiến, hiện đại tinh giản bộ máy quản lý, nâng cao hiệu quả điều hành trong doanh nghiệp; Thường xuyên bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ; tuyển dụng cán bộ làm công tác pháp lý, am hiểu luật pháp Việt Nam và quốc tế để đảm bảo hoạt động sảnxuất kinh doanh đúng quy định của pháp luật hiện hành; Ưu tiên đào tạo đội ngũ cán bộ thiết kế giày, đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi về marketing và xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp. Đây là lực lượng chủ yếu giúp doanh nghiệp chuyển đổi phương thức sản xuất phù hợp, phát triển bền vững. Chú trọng tạo dựng một đội
Luận văn liên quan