Ở các nước đang phát triển, vai trò của Nhà nước trong việc cấp vốn đầu tư ban đầu để hoàn thiện cơ sở kinh tế hạ tầng, hình thành các ngành công nghiệp then chốt là hết sức to lớn để mở đường và định hướng phát triển cho toàn bộ nền kinh tế, xã hội. Ở Việt Nam chiến lược tăng trưởng và phát triển kinh tế đặt ra yêu cầu cần tăng cường hơn nữa nhịp độ gia tăng của GNP, sớm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo đói. Để đặt được yêu cầu này, dứt khoát phải có vốn đầu tư.
Tuy nhiên, chi đầu tư phát triển có mối quan hệ tương quan như thế nào đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát? Sử dụng nguồn vốn đầu tư như thế nào để đặt hiệu quả cao nhất, kinh tế vẫn tăng trưởng ổn định, nhưng tỷ lệ lạm phát vừa phải, đặt mục tiêu của nhà nước. Đây là vấn đề không chỉ các cơ quan chức năng nhà nước quan tâm mà cả toàn xã hội quan tâm.
33 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2958 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích mối liên hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Lạm phát
1.1. Khái niệm
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền.
Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác.
Thông thường khi hiểu theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu nó là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn khi hiểu theo nghĩa thứ hai thì nó như là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường tòan cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô.
Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự ổn định giá cả.
==> Nói một cách tổng quát thì lạm phát là sự trượt giá của đồng tiền
1.2. Các loại lạm phát
Thiểu phát
Trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Có những đặc trưng không phải con số tỷ lệ giúp xác định thiểu phát, đó là :
- Ngân hàng thương mại gặp khó khăn khi cho vay, đồng thời họ lại đặt ra lãi suất huy động tiết kiệm thấp – một tình trạng được coi là thị trường tiền tệ trì trệ. Tỷ lệ lạm phát thấp khiến cho lãi suất thực trở nên cao, khiến các nhà đầu tư dè dặt khi đi vay ngân hàng, ngân hàng ứ động tiền, nên giảm huy động tiết kiệm bằng cách hạ lãi suất huy động tiết kiệm.
- Sản xuất trở nên thiếu sôi động. Lạm phát thấp khiến cho tiền công thực tế trở nên cao hơn. Người lao động có thể giảm cung lao động và tăng thời gian nghỉ ngơi. Mặt khác, giá cả sản phẩm thấp làm giảm động lực sản xuất.
Thiểu phát đôi khi được xem là tình trạng trước giảm phát (một tình trạng trái ngược với lạm phát nhưng vẫn nguy hiểm đối với nền kinh tế).
1.2.2. Lạm phát thấp
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3 đến 7 phần trăm một năm.
1.2.3. Lạm phát phi mã
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá 2 chữ số một năm, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát.
Siêu lạm phát
Là lạm phát “mất kiểm sóat”, một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Một định nghĩa đơn giản là chỉ số lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên. Theo tiêu chuẩn kế tóan quốc tế 29, có bốn tiêu chí để xác định siêu lạm phát, đó là :
- Người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền.
- Giá cả hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định.
- Các khỏan tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn.
- Lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong 3 năm lên tới 100%.
1.3. Nguyên nhân của lạm phát
1.3.1. Lạm phát do cầu kéo
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức tòan dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng.
Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó, có lạm phát.
1.3.2. Lạm phát do cầu thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính cách cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
1.3.3. Lạm phát do chi phí đẩy
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo tòan mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của tòan thể nền kinh tế cũng tăng.
1.3.4. Lạm phát do cơ cấu
Nghành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Vì thế, ngành kinh doanh không hiệu quả không thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
1.3.5. Lạm phát do xuất khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
1.3.6. Lạm phát do nhập khẩu
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường hợp OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
1.3.7. Lạm phát tiền tệ
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ, hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên) là nguyên nhân gây ra lạm phát.
1.3.8. Lạm phát đẻ ra lạm phát
Khi nhận thấy lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng trong tương lai giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.
Chi đầu tư phát triển
2.1. Khái niệm chung
Trong tổng chi ngân sách nhà nước có 4 phần chính: Chi thường xuyên, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, chi trả nợ và viện trộ và chi đầu tư phát triển
Vậy chi đầu tư phát triển là một phần nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước. Chi đầu tư phát triển nhằm làm tăng cơ sở vật chất của đất nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.2. Các khoản chi đầu tư phát triển
+ Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội không có khả năng thu hồi vốn do Trung ương quản lý ( Chi xây dựng cơ bản
+ Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
+ Chi khoa học công nghệ
+ Chi giáo dục- đào tạo, dạy nghề.
2.3. Nguyên tắc chung về phân bổ chi đầu tư phát triển
+ Vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước chỉ bố trí cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng hoàn trả vốn trực tiếp
+ Các dự án, công trình được bố trí vốn phải nằm trong mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của ngành và quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, đảm bảo có đủ thủ tục đầu tư theo đúng các quy định của pháp luật hiện hành về quản lý đầu tư và xây dựng;
+ Bảo đảm tính công khai, minh bạch, công bằng trong phân bổ vốn đầu tư phát triển
( ( (
CHƯƠNG 2:
NỘI DUNG MỐI QUAN HỆ GIỮA CHI ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ LẠM PHÁT
1. Nguồn gốc của mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát
Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất trong quản lý ngân sách nhà nước là đảm bảo cân đối giữa thu và chi. Tuy nhiên, do khả năng nguồn thu bị hạn chế và tăng chậm, còn nhu cầu chi lại tăng rất nhanh nên thường xuyên xảy ra tình trạng bội chi ngân sách không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các nước trên thế giới.
Nguyên nhân phổ biến dẫn đến bội chi ngân sách nhà nước là do: nhu cầu chi tiêu và thực tế chi của nhà nước không những không thể cắt giảm, mà ngày càng tăng lên. Đặc biệt những dự án phát triển trong chiến lược phát triển kinh tế thường đòi hỏi nguồn vốn lớn để nhà nước thực hiện chương trình đầu tư nhằm cải thiện cơ cấu kinh tế và hướng tới sự tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó việc tăng thu nhập bằng công cụ thuế gặp phải sự chống đối mạnh mẽ từ mọi phía và hậu quả của tăng thuế lại kèm theo sự kìm hãm tốc đội tích tụ vốn cho sản xuất, hạn chế tiêu dùng, tức là dẫn tới khả năng suy thoái kinh tế.
Phương pháp để cân đối ngân sách như sau:
+ Lây tổng số thu thường xuyên so với tổng chi thường xuyên, yêu cầu chung là chi thường xuyên không được vượt quá thu thường xuyên.
+ Số còn lại chênh lệch giữa thu thường xuyên và chi thường xuyên được so với dự toán chi đầu tư phát triển kinh tế để xác định thâm hụt ngân sách ( số bội chi ngân sách ) và tìm biện pháp bù đắp thâm hụt.
>> Như vậy toàn bộ số thâm hụt ngân sách được thể hiện ở nhu cầu chi đầu tư phát triển kinh tế và việc tìm kiếm nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách, cũng chính là việc tìm kiếm vốn cho đầu tư phát triển kinh tế.
Các biện pháp tạo nguồn bù đắp bội chi ngân sách:
Biện pháp phát hành thêm tiền: đây là biện pháp đã được chính phủ nhiều nước sử dụng.
Ưu điểm:
+ Đơn giản, dễ thực hiện, không có trách nhiệm hoàn trả
+ Trong một số trường hợp, việc phát hành thêm tiền cũng có tác dụng phân bổ nguồn tiết kiệm trong nền kinh tế, đặc biệt là phân bổ lại giữa nhà nước và các nhà đầu tư tư nhân. Người có lợi trong trường hợp này là nhà nước.
Nhược điểm:
+ Khi nhà nước phát hành thêm tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước hay nói cách khác là để chi đầu tư phát triển thì nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng, giá thành công trình sẽ tăng lên do cầu đầu tư tăng >> giá trị thực tế của vốn đầu tư giảm đi tương ứng >> Nhà nước sẽ là người có lợi, còn người bị thiệt hại là các nhà đầu tư tư nhân và những người có vốn.
+ Đồng thời việc phát hành tiền sẽ làm phân phối lại thu nhập của dân cư và làm giảm mức sống của dân cư.
+ Gây rối loạn các hoạt động tài chính, tiền tệ.
+ Gia tăng lạm phát: ( Đây chính là mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát >> Mối quan hệ đồng biến: chi đầu tư phát triển tăng dẫn đến lạm phát tăng.
( Như vậy, lợi ích của biện pháp phát hành thêm tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước chỉ có tác dụng nhất thời, cục bộ, còn tác hại của nó lại lâu dài và gây thiệt hại cho nền kinh tế. Nhận thức được ảnh hưởng này chính phủ nhiều nước đã cố gắng hạn chế hoặc từ bỏ biện pháp này.
Biện pháp đi vay để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước: đây là biện pháp được sử dụng ở hầu hết các nước trên thế giới. Nguồn vay không chỉ để bù đắp thiếu hụt NSNN, mà nó còn được sử dụng để cho vay lại hoặc giảm phát. Thông thường đi vay bao gồm: vay ngân hàng, vay dân và các tổ chức trong xã hội và vay nước ngoài.
Ưu điểm:
+ Đáp ứng được nhu cầu thiếu hụt ngân sách.
+ Góp phần rút bớt lượng tiền thừa trong lưu thông, trước mắt không có tác dụng làm bùng nổ lạm phát.
Nhược điểm:
+ Có trách nhiệm hoàn trả vốn, lãi khi đến hạn
+ Trong nhiều trường hợp kết quả đi vay không đạt mục tiêu như mong muốn
+ Khi vay ngắn hạn trong nước để bù đắp thiếu hụt trong chi thường xuyên của chính phủ sẽ phải trả lãi suất cao do đó dẫn đến nguy cơ lạm phát của chu kỳ sau ( Đây chính là mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát >> Mối quan hệ đồng biến: chi đầu tư phát triển tăng dẫn đến lạm phát tăng ở chu kỳ sau.
+ Đối với trường hợp vay nước ngoài thì gánh nặng nợ lãi đối với nước ngoài cũng nặng nề, nhất là khi sử dụng tiền vay kém hiệu quả
( Như vậy, biện pháp sử dụng nguồn vốn vay để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước chỉ có tác dụng tích cực hữu hiệu, giúp kinh tế phát triển bền vững, đồng thời tỷ lệ lạm phát ở mức vừa phải . Thì nguồn vốn vay phải được sử dụng cho mục đích đầu tư phát triển kinh tế, tuyệt đối không sử dụng vốn vay để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng. Tuy nhiên nguồn vốn vay sử dụng cho chi đầu tư phát triển cũng phải được sử dụng 1 cách có hiệu quả, có kế hoạch rõ ràng, tránh tình trạng đầu tư dài trải kém hiệu quả sẽ dẫn tới tình trạng kinh tế bất ổn, lạm phát tăng cao.
2. Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát
Ta có:
A: Thu thường xuyên
B: Chi thường xuyên
C: Chi đầu tư phát triển
D: Thâm hụt ngân sách
D = A - B - C
C tăng ( D tăng
Khi D tăng >> nhà nước phải tìm kiếm nguồn để bù đắp thâm hụt >> Thông qua 2 cách:
1/ Phát hành thêm tiền
2/ Đi vay
Cả 2 biện pháp đều có những ưu nhược điểm riêng và đều tác động đến lạm phát, cụ thể:
Phát hành thêm tiền >> Lượng cung tiền vào chi đầu tư sẽ tăng lên >> Gía cả các công trình đầu tư sẽ tăng lên >> do cầu đầu tư tăng >> Gía trị đồng vốn giảm đi tương ứng >> Đồng tiền bị mất giá >> Lạm phát tăng cao. Không những thế, khi chính phủ phát hành thêm tiền để chi đầu tư >> Tạo công ăn việc làm cho người dân >> Thu nhập của họ ngày càng tăng >> Nhu cầu chi tiêu, sinh hoạt của họ cũng tăng lên >> Cầu hàng hóa tăng >> Gía cả hàng hóa tăng >> Lạm phát. Như vậy việc phát hành tiền đã gián tiếp tác động làm tăng lạm phát thông qua việc kích cầu.
Đi vay để bù đắp thâm hụt: phương án này có vẻ khả thi hơn so với phương án phát hành thêm tiền vì trước mắt nó không có tác dụng làm bùng nổ lạm phát. Nhưng về lâu dài nó cũng là 1 trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát vì nếu chung ta sử dụng ngồn vay không có hiệu quả >> không thu lợi được từ việc sử dụng vốn vay trong khi đó vẫn phải trả lãi suất cho người cho vay >> Nợ chồng chất nợ >> Khi đến hạn trả nợ vay, chính phủ không có tiền >> Chính phủ phải thực hiện biện pháp đơn giản duy nhất là phát hành thêm tiền >> Và như vậy lại cũng làm cho lạm phát tăng cao.
Ta có thể thấy được mối quan hệ này thông qua các biểu đồ và bảng số liệu sau:
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tăng cung tiền (M2, % thay đổi)
25.5
17.6
24.9
29.5
29.7
33.6
39.0
Tín dụng (% thay đổi)
21.5
22.2
28.4
41.6
31.7
25.4
36.0
Tổng đầu tư xã hội (% GDP)
31.2
33.2
35.4
35.6
38.9
41.0
41.2
Thâm hụt ngân sách (% GDP)
-4.7
-4.5
-3.3
-4.3
-4.9
-5.0
-5.0
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI, %)
0.8
4.0
3.0
9.4
8.4
6.7
12.6
Thâm hụt thương mại (triệu USD)
481
-1054
-2581
-3854
-2439
-2776
-8227
Tóm lại: chi đầu tư phát triển và lạm phát có mối quan hệ đồng biến với nhau trong điều kiện kinh tế bình thường, thông qua các biện pháp tìm kiếm nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách.
Tuy nhiên lạm phát có ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế của một đất nước, tác động đó là tiêu cực hay tích cực và nếu là tác động tiêu cực thì chúng ta phải làm gì để kiềm chế lạm phát.
Ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế:
- Trong quan niệm của nhiều người, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế vì làm giảm năng suất lao động :
+Lạm phát bóp méo mức độ khan hiếm tương đối (phản ánh qua giá cả) của các nguồn lực sản xuất và do đó bóp méo các quyết định đầu tư và sự phân bổ các nguồn lực khan hiếm này.
+Lạm phát còn làm giảm mức khấu trừ thực tế cho phép trong thuế doanh nghiệp đối với khấu hao tài sản cố định và làm tăng giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích lũy vốn, dẫn đến giảm năng suất.
Hàm lượng thông tin liên quan đến biến động giá cả giảm đi kể cả trong thời kỳ lạm phát ổn định. Như vậy, các nhà đầu tư thường có xu hướng mắc lỗi trong quyết định của mình và chọn những “gói” yếu tố sản xuất không phải là tối ưu, làm giảm hiệu quả kinh tế và ,do đó, giảm năng suất.
- Tuy nhiên không ít người lại lập luận rằng, lạm phát ở một mức nhẹ lại có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, nhà kinh tế học Tobin cho rằng lạm phát làm cho nhà đầu tư tái phân bổ danh mục đầu tư của mình từ tiền sang chứng khóan, làm giảm lãi suất thực tế và do đó làm tăng đầu tư và nâng cao năng suất lao động. Ông lập luận cho rằng “một chút lạm phát giúp bôi trơn nền kinh tế” vì nó giúp thị trường lao động điều chỉnh cho phù hợp.
Một số khác cũng chỉ ra rằng nhu cầu tăng lên ổn định sẽ gây ra lạm phát ở mức nhẹ, là cái mà thực ra lại làm tăng, chứ không phải giảm năng suất lao động, và, do đó, tăng tốc độ tăng trưởng. Vì thế, động thái nhằm đạt mức lạm phát bằng không chẳng qua là chính sách trả trước ngay bây giờ cho nhiều thiệt hại hơn sau này.
- Từ một khía cạnh khác, một số người cho rằng, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế nếu xét đến mối quan hệ giữa tính bất trắc của lạm phát trong tương lai với tăng trưởng sản lượng. Họ cho rằng tính bất trắc của lạm phát càng cao thì tăng trưởng sản lượng càng thấp. Sở dĩ có điều này bởi vì nhà sản xuất khai thác triệt để tính bất đối xứng về thông tin trên thị trường – thông tin có được của người tiêu dùng bị hạn chế so với nhà sản xuất – để tăng biên độ lợi nhuận, do đó làm tăng doanh thu kể cả cho những nhà sản xuất không thực sự hiệu quả. Việc phân bổ các nguồn lực sản xuất tới những nhà sản xuất không hiệu quả như vậy sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng.
Nhưng ngược lại với dòng lập luận này, một số nhà kinh tế chỉ ra rằng tính bất trắc của lạm phát lại có tác động đến tăng trưởng, nhờ vào động thái tăng tiết kiệm để phòng ngừa lạm phát. Họ cũng chỉ ra thêm rằng trên thực tế, quan hệ nhân quả giữa hai biến số này là không nhất quán ở từng trường hợp nghiên cứu quốc gia.
Như vậy, có thể nói rằng về lý luận, quan hệ nhân quả giữa lạm phát với năng suất lao động và/ hoặc tăng trưởng chưa hòan tòan sáng tỏ. Thực tế, kết quả nghiên cứu thực chứng trong nhiều nghiên cứu cấp quốc gia và nhóm quốc gia cũng chỉ ra mối quan hệ phức tạp giữa hai nhóm biến số này. Các nghiên cứu thực chứng ban đầu chỉ tập trung vào nhóm G7, hoặc các nước trong tổ chức OECD, và kết quả nghiên cứu không chỉ ra được một kết luận rõ ràng về quan hệ này. Cụ thể, một số nước như Nhật, Thái Lan, Sri Lanca, Philippin và Indonesia, lạm phát và năng suất không hề có quan hệ gì với nhau. Ở một số nước khác như Malaysia, lạm phát có tác động tiêu cực đến năng suất. Ở những nước như Hàn Quốc, Ấn Độ và Singapore, hai biến số này tác động lẫn nhau.
Thực tế ở Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy: ở một tỷ lệ lạm phát vừa phải thì kinh tế tăng trưởng ổn định, nhưng khi lạm phát tăng cao thì tốc độ tăng trưởng kinh tế lại bị giảm xuống một cách đáng kể.
Điều này chứng tỏ lạm phát không hoàn toàn có ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Điều quan trọng là lạm phát ở một mức độ như thế nào là phù hợp và có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Và nguyên nhân tại sao lạm phát trong những năm gần đây ở Việt Nam lại tăng cao bất thường làm mất cấn đối kinh tế vĩ mô.
Từ trước đến nay công tác chống tham nhũng chỉ mới chú trọng xem các dự án đầu tư thất thoát vốn thế nào mà chưa để ý đến các dự án đầu tư kém hiệu quả, đầu tư sai mục đích.
Hầu hết ở VN khi chuẩn bị đầu tư thì có các bước nghiên cứu đánh giá dựa trên số liệu dự báo... để đưa ra quyết định đầu tư. Nhưng sau khi thực hiện đầu tư rồi lại thiếu mất phần đánh giá hiệu quả đầu tư. Thế mới có rất nhiều dự án thực hiện xong không mang lại lợi ích thiết thực, lãng phí tiền của nhân dân. Ví dụ như chuyện đầu tư dự án thủy điện hết 800 triệu đồng chỉ để thắp sáng mấy bóng điện; hệ thống thủy lợi xây xong không có nước; đầu tư cho ngành công nghiệp đóng tàu (Vinashin) hàng trăm nghàn tỷ đồng để rồi thu được con số 0, không những thế còn gây ra khoản nợ khổng lồ hàng ngàn tỷ đồng,... ( Làm lạm phát tăng cao, kinh tế mất ổn định.
Vậy việc lạm phát tăng cao dẫn đến tình trạng mất cân đối vĩ mô, ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội như hiện nay là hậu quả tất yếu của việc chi đầu tư kém hiệu quả, chi tràn lan không có trọng điểm. Vì vậy, chính phủ cần có những chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ thích hợp để kiềm chế lạm phát cao, giúp kinh tế phát triển ổn định.
Mà một khi lạm phát tăng cao, chính phủ phải thực hiện các chính sách tài khóa thắt chặt để kiềm chế lạm phát. Tròng đó, có biện pháp cắt giảm chi ngân sách nhà nước, cắt giảm chi đầu tư phát triển ( Lạm phát tác động ngược trở lại chi đầu tư phát triển.
Ta có thể thấy được sự tác động này thông qua thực tế như sau: 2 tháng đầu năm 2011 tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đã vượt qua ngưỡng 2 con số là 12,24% >> Chính phủ đã ban hành một công văn khẩn: Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
* Nói tóm lại, chi đầu tư phát triển và lạm phát c