Hệ thống tài chính là một trong những thành phần quan trọng, nếu không muốn nói là giữ vai trò huyết mạch của bất kỳ một nền kinh tế nào trên thế giới. Nhờ có các hoạt động của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác mà toàn bộ nền kinh tế được luân chuyển, vận hành một cách thông suốt, thuận tiện. Nền kinh tế toàn cầu đang ngày càng phát triển, và hệ thống tài chính cũng không ngừng tiến bộ, phát triển. Tuy nhiên, nó vẫn còn bộc lộ nhiều vấn đề về khả năng đảm bảo an toàn trong các hoạt động tín dụng.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, bắt nguồn từ Hoa Kỳ, sau đó nhanh chóng lan rộng toàn cầu, ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, có nguyên nhân sâu xa từ sự thiếu an toàn trong hệ thống tài chính.
Rút ra bài học quý báu từ cuộc khủng hoảng này, hầu hết các quốc gia đều tái cấu trúc lại nền kinh tế của mình, với trọng tâm là hệ thống tài chính nhằm đảm bảo một nền tài chính vững mạnh, làm cơ sở ổn định cho sự tăng trưởng, phát triển kinh tế.
Nằm trong xu hướng chung của thế giới, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã tiến hành nhiều biện pháp để củng cố, ổn định lại hệ thống tài chính thêm an toàn, vững mạnh, tạo nền tảng vữa chải cho sự phục hồi nền kinh tế nước nhà sau cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2008 vừa qua.
Tháng 5/2010, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN (gọi tắt là Thông tư 13) quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Đây là một trong những văn bản pháp luật nằm trong chuỗi các văn bản do Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước ban hành nhằm mục tiêu an toàn, ổn định hóa nền tài chính đất nước, cũng như giúp cho hệ thống ngân hàng Việt Nam có sức đề kháng tốt hơn khi xảy ra những rủi ro bất ngờ như cuộc khủng hoảng vừa qua, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Với những chuẩn mực khá hợp lý, ngày càng bám sát những tiêu chí quốc tế (chuẩn Basel III), Thông tư 13 là một sự tiến bộ, cải thiện đáng kể so với các văn bản trước nó.
Vừa được ban hành, Thông tư 13 đã thu hút sự chú ý của dư luận, không chỉ các ngân hàng, các tổ chức tín dụng – những chủ thể được điều chỉnh bởi Thông tư - mà còn các chủ thể khác của nền kinh tế. Bởi tầm quan trọng của Thông tư 13, không chỉ tác động vào hệ thống tín dụng mà nó còn phần nào ảnh hưởng đến nhiều đối tượng khác trong nền kinh tế.
26 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2964 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích một số nội dung chủ yếu của thông tư 13 (và thông tư 19) về các quy định đảm bảo an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Đại học Kinh tế TP.HCM
/
Môn Tài chính tiền tệ
Bài tiểu luận
PHÂN TÍCH MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU
CỦA THÔNG TƯ 13 (VÀ THÔNG TƯ 19)
VỀ CÁC QUY ĐỊNH ĐẢM BẢO AN TOÀN HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM
Các thành viên nhóm:
Thái Yên Bình – TC2
Nguyễn Văn Thống – TC2
Nguyễn Thành Trung – TC2
Ngô Minh Vũ – TC2
Lê Quang Vịnh – TC2
A - GIỚI THIỆU
Đặt vấn đề
Hệ thống tài chính là một trong những thành phần quan trọng, nếu không muốn nói là giữ vai trò huyết mạch của bất kỳ một nền kinh tế nào trên thế giới. Nhờ có các hoạt động của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác mà toàn bộ nền kinh tế được luân chuyển, vận hành một cách thông suốt, thuận tiện. Nền kinh tế toàn cầu đang ngày càng phát triển, và hệ thống tài chính cũng không ngừng tiến bộ, phát triển. Tuy nhiên, nó vẫn còn bộc lộ nhiều vấn đề về khả năng đảm bảo an toàn trong các hoạt động tín dụng.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, bắt nguồn từ Hoa Kỳ, sau đó nhanh chóng lan rộng toàn cầu, ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, có nguyên nhân sâu xa từ sự thiếu an toàn trong hệ thống tài chính.
Rút ra bài học quý báu từ cuộc khủng hoảng này, hầu hết các quốc gia đều tái cấu trúc lại nền kinh tế của mình, với trọng tâm là hệ thống tài chính nhằm đảm bảo một nền tài chính vững mạnh, làm cơ sở ổn định cho sự tăng trưởng, phát triển kinh tế.
Nằm trong xu hướng chung của thế giới, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã tiến hành nhiều biện pháp để củng cố, ổn định lại hệ thống tài chính thêm an toàn, vững mạnh, tạo nền tảng vữa chải cho sự phục hồi nền kinh tế nước nhà sau cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2008 vừa qua.
Tháng 5/2010, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN (gọi tắt là Thông tư 13) quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Đây là một trong những văn bản pháp luật nằm trong chuỗi các văn bản do Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước ban hành nhằm mục tiêu an toàn, ổn định hóa nền tài chính đất nước, cũng như giúp cho hệ thống ngân hàng Việt Nam có sức đề kháng tốt hơn khi xảy ra những rủi ro bất ngờ như cuộc khủng hoảng vừa qua, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Với những chuẩn mực khá hợp lý, ngày càng bám sát những tiêu chí quốc tế (chuẩn Basel III), Thông tư 13 là một sự tiến bộ, cải thiện đáng kể so với các văn bản trước nó.
Vừa được ban hành, Thông tư 13 đã thu hút sự chú ý của dư luận, không chỉ các ngân hàng, các tổ chức tín dụng – những chủ thể được điều chỉnh bởi Thông tư - mà còn các chủ thể khác của nền kinh tế. Bởi tầm quan trọng của Thông tư 13, không chỉ tác động vào hệ thống tín dụng mà nó còn phần nào ảnh hưởng đến nhiều đối tượng khác trong nền kinh tế.
Đã có nhiều vấn đề, nhiều ý kiến phản hồi được đặt ra xung quanh những quy định trong Thông tư 13. Đến cuối tháng 09/2010, Thông tư số 19/2010/TT-NHNN (gọi tắt là Thông tư 19) được ban hành nhằm điều chỉnh một số quy định của Thông tư 13. Những điều chỉnh này là không quá khác biệt và có liên hệ trực tiếp với Thông tư 13, nên bài tiểu luận này sẽ tìm hiểu nội dung của Thông tư 13 lẫn Thông tư 19 (những sửa đổi bổ sung một số điều khoản trong Thông tư 13).
Trong bài tiểu luận, chúng ta sẽ tìm hiểu về những nội dung chính của Thông tư 13 cũng như đề cập đến những sửa đổi, bổ sung trong Thông tư 19, qua đó, phân tích tác động của nó đối với hệ thống tài chính nước ta. Tuy nhiên, trước đó, bài tiểu luận sẽ giới thiệu một số nét khái quát về chuẩn Basel, chuẩn mực quốc tế về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng, cũng như tổng quan về hoạt động tín dụng ở Việt Nam trước khi Thông tư 13 ra đời.
Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích những ưu điểm và hạn chế của một số nội dung chính trong Thông tư 13 (cũng như Thông tư 19), từ đó thấy được tác động của nó đến nền tài chính Việt Nam trong ngắn hạn cũng như dài hạn.
Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính (phân tích, nhận xét tổng hợp từ nhiều nguồn tài liệu sử dụng).
Đối tượng nghiên cứu
Thông tư số 13/2010/TT-NHNN và Thông tư số 19/2010/TT-NHNN (sửa đổi bổ sung một số quy định trong Thông tư số 13/2010/TT-NHNN) do Ngân hàng ban hành quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Phạm vi nghiên cứu
Hệ thống các tổ chức tín dụng ở Việt Nam, mà chủ yếu là hệ thống các ngân hàng thương mại.
Tài liệu sử dụng
Thông tư số 13/2010/TT-NHNN và Thông tư số 19/2010/TT-NHNN do Ngân hàng Nhà nước ban hành.
Thời báo Kinh tế Việt Nam (website www.vneconomy.vn)
Và một số tài liệu khác trên các website của các báo điện tử (được ghi chú rõ nguồn trong những trích dẫn cụ thể).
B - NỘI DUNG
Giới thiệu khái quát về các Đồng thuận Basel - những chuẩn mực về quản trị rủi ro cho các ngân hàng trên thế giới
Bài tiểu luận dành một phần nhỏ để giới thiệu sơ lược về các Đồng thuận Basel đã và đang được áp dụng trên thế giới, vì đây là những chuẩn mực quốc tế nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của các ngân hàng, và hơn thế nữa, nó là chuẩn mực được Thông tư 13, cũng như một số văn bản trước nó áp dụng. Tìm hiểu khái quát về các Đồng thuận Basel giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quan về nền tảng lý thuyết mà Thông tư 13 áp dụng.
Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS), tổ chức được xem là có tầm ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động quản trị ngân hàng trên thế giới, được thành lập vào cuối năm 1974 dưới sự đồng thuận của các thành viên nhóm các nước công nghiệp G-10.
BCBS, trong thời gian hoạt động của mình, đã và đang xây dựng một hệ thống quy định về hoạt động quản trị rủi ro trong ngân hàng với tên gọi “Đồng thuận Basel”, ban đầu nhằm áp dụng cho các các thành viên trong nhóm G-10 và sau này là cho tất cả các ngân hàng trên thế giới.
Đồng thuận Basel I và Basel II
“Đồng thuận Basel 1988” (Basel I) là tập hợp các quy định về quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng với trọng tâm là việc đưa ra các quy định về yêu cầu vốn tối thiểu đối với các ngân hàng.
Trong những năm gần đây, Basel I đã thực sự không còn bắt kịp được với sự phát triển như vũ bão của các định chế tài chính cũng như sự tiến bộ của hoạt động tài chính và quản trị rủi ro. Vì lẽ đó, tháng 06/2004, BCBS công bố Basel II, một hệ thống những hướng dẫn cụ thể mới nhằm thay thế cho Basel I. Về nội dung, Basel II sử dụng khái niệm “Ba Trụ cột” (Three Pillars) để làm cơ sở cho sự ổn định của hệ thống tài chính. Đó là:
Yêu cầu vốn tối thiểu: được tính toán dựa trên ba cấu phần rủi ro chính mà một ngân hàng có thể gặp phải: đó là rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Mức yêu cầu tỷ lệ vốn tối thiểu cho các ngân hàng là 8%.
Giám sát quản lý: đề cập những quy định trong xử lý những rủi ro khác của hoạt động ngân hàng, ví dụ như rủi ro hệ thống, rủi ro tập trung, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý.
Kỷ luật thị trường.
Đồng thuận Basel III
Dù có những tiến bộ đáng kể về nội dung so với Basel I, song việc áp dụng Basel II trên phạm vi toàn cầu gặp rất nhiều khó khăn, nhất là sau cuộc khủng hoảng tài chính mang phạm vi toàn cầu năm 2008. Nhận thức được những xu hướng mới của nền kinh tế thế giới và nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại ở Basel II, BCBS đã gấp rút tập hợp những dự thảo sửa đổi phù hợp đối với Basel II. Ngày 22/09/2010, nội dung bổ sung và cập nhật của Basel II (tức là Basel III) được trình bày tại Hội nghị Quốc tế về Giám sát Ngân hàng lần thứ 16 tổ chức tại Singapore.
Basel III được xem là tập hợp những quy định cập nhật và nghiêm ngặt nhất về lĩnh vực quản trị rủi ro hoạt động ngân hàng mà BCBS từng công bố. Basel III vẫn còn đang tiếp tục được lấy ý kiến từ các quan chức quản lí hoạt động ngân hàng tại các nền kinh tế lớn trên thế giới trước khi được áp dụng theo từng giai đoạn bắt đầu từ năm 2013 và sẽ hoàn tất vào năm 2018.
Về cơ bản, Basel III hầu như vẫn giữ lại những quy định của Basel II và thêm vào những khái niệm và yêu cầu mới mang tính cập nhật phù hợp với tình hình mới của nền kinh tế thế giới.
Nâng cao chất lượng vốn
Nếu Basel II chỉ tập trung đến yêu cầu về mức độ vốn tối thiểu của ngân hàng thì Basel III đã tiến một bước xa hơn khi đưa ra định nghĩa phù hợp về vốn trước khi xây dựng mức độ phù hợp của vốn. “Chất lượng vốn cao hơn đồng nghĩa với khả năng hấp thụ các khoản lỗ cao hơn, cũng có nghĩa là ngân hàng sẽ trở nên khỏe mạnh hơn, cho phép nó có thể chịu đựng giai đoạn khó khăn tốt hơn”. Theo đó, cổ phần phổ thông của các ngân hàng sẽ là trọng tâm được Basel III hướng đến để xây dựng một nền tảng vốn có chất lượng tốt.
Tỷ lệ an toàn vốn
Hệ số đủ vốn CAR, một thước đo độ an toàn vốn của các ngân hàng, được tính bằng tỷ lệ giữa vốn tự có (vốn cấp 1 và cấp 2) và tổng tài sản có rủi ro vẫn được giữ nguyên ở mức 8% như trong Basel II. Ngoài ra, yêu cầu vốn chủ sở hữu (vốn cấp 1) được nâng từ 4% lên 6%, và trong 6% đó thì vốn của các cổ đông thông thường chiếm 4.5% (cao hơn rất nhiều so với mức 2% ở Basel II).
Các ngân hàng cũng sẽ được yêu cầu phải trích thêm khoản dự phòng bằng 2.5% tổng tài sản rủi ro với khoản mục vốn cổ phần thường để có thể gánh chịu những khó khăn có thể xảy ra trong tương lai.
Cơ sở ổn định vĩ mô để hạn chế rủi ro hệ thống
Với Basel III, BCBS lần đầu tiên giới thiệu về một cơ sở ổn định vĩ mô đề hoàn thiện việc giám sát hoạt động ngân hàng. Theo đó, Basel III đưa ra các biện pháp để giảm bớt tác động của chu kỳ kinh tế đối với hệ thống ngân hàng và bảo vệ mối liên kết giữa các tổ chức tài chính, đặc biệt là những tổ chức cố tầm ảnh hưởng lớn trong hệ thống.
Một cách tổng quát, có thể nói, việc áp dụng Basel III không chỉ giúp hệ thống tài chính toàn cầu vững mạnh hơn, mà còn giúp nền kinh tế toàn cầu phát triển bền vững và chống chọi tốt hơn với những cuộc khủng hoảng mang tính chu kỳ.
Sơ lược về hệ thống tài chính Việt Nam trước khi Thông tư 13 được ban hành
Trước khi đi vào phân tích nội dung của Thông tư 13, bài tiểu luận cung cấp một vài nét khái quát về tình hình hoạt động tín dụng ở nước ta từ những đầu sau đổi mới cho đến trước khi Thông tư 13 ra đời.
Từ sau năm 1986, với sự mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực. Song hành với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống tài chính, một thành tố quan trọng của nền kinh tế, cũng có những đổi thay và tiến bộ theo xu hướng tích cực. Những quy định, thể chế liên quan đến hoạt động tín dụng được ban hành phù hợp với từng giai đoạn phát triển và ngày càng hoàn thiện, chặt chẽ hơn.
Ban đầu, hệ thống tài chính trong nước dường như được tự do hóa hoàn toàn, kể từ khi hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI năm 1987 cho phép “thực hiện mạnh mẽ chính sách huy động vốn trong dân, trong các tổ chức kinh tế bằng nhiều hình thức, nhiều kênh bảo đảm lợi ích của người gửi”(1). Tuy nhiên, chính vì sự thả nổi tự do với sự thiếu vắng của các quy định về an toàn cho hệ thống tín dụng đã khiến hệ thống tín dụng lúc bấy giờ hoạt động một cách thiếu an toàn và nhanh chóng sụp đổ.
Chính điều đó góp phần thúc đẩy sự ra đời của những văn bản pháp luật nhằm quy định những chuẩn mực về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Những quy định đầu tiên được thể hiện trong Pháp lệnh ngân hàng do Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 23/05/1990. Do những quy định về đảm bảo an toàn theo các pháp lệnh ngân hàng phần vì còn thô sơ, phần không được chế tài một cách nghiêm minh cộng với những yếu tố khác dẫn làm cho Việt Nam gặp rắc rối với hệ thống ngân hàng lần thứ hai cùng thời điểm với cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997-1998 trong khu vực(2).
Sau những vấp váp ban đầu, các văn bản pháp luật sau đó ngày càng được điều chỉnh và bổ sung theo hướng hoàn thiện dần. Nhận thấy tầm quan trọng của những chuẩn mực quốc tế về an toàn tín dụng (Basel I), Ngân hàng Nhà nước đã nghiên cứu và áp dụng những chuẩn mực đó vào Việt Nam kể từ khi Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng được ban hành vào năm 1997.
Lần lượt các quy định tuân thủ chuẩn Basel I đã ra đời: Quyết định số 296/1999/QĐ-NHNN ngày 25/08/1999 quy định về giới hạn cho vay đối với một khách hàng, Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN ngày 25/08/1999 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, và một số văn bản khác.
Một trong những chuẩn mực quan trọng của Basel I được đưa vào là hệ số đủ vốn. Theo Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN, tổ chức tín dụng (trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài) phải duy trì tỷ lệ tối thiểu là 8% giữa vốn tự có và tổng tài sản “Có”, kể cả các cam kết ngoại bảng, được điều chỉnh theo mức độ rủi ro. Trong đó, vốn tự có được tính ở đây chỉ bao gồm vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, mà theo Basel I thì, đó thực chất chỉ mới là vốn cấp 1, một phần trong vốn tự có bên cạnh vốn cấp 2. Mức yêu cầu tỷ lệ tối thiểu vốn cấp 1 trong Basel I chỉ là 4%. Do vậy, Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN đã vô hình trung áp đặt mức an toàn vốn rất cao cho các ngân hàng. Vì thế, không có ngân hàng nào đáp ứng được tiêu chuẩn đó.(3)
Những quy định còn bất cập và chưa phù hợp đó đã dần được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh và sửa đổi. Ngày 19/04/2005, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Những nội dung chưa hợp lý như quy định về vốn tự có trong Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN trước đây đã được sửa đổi cho phù hợp. Bên cạnh đó, trong Quyết định này, Ngân hàng Nhà nước đã tách bạch giữa hoạt động của ngân hàng thương mại và hoạt động của ngân hàng đầu tư. Chức năng chính của các ngân hàng thương mại là thanh toán, huy động vốn và cấp tín dụng cho vay, còn hoạt động thuộc về lĩnh vực đầu tư, chứa đựng nhiều rủi ro như kinh doanh chứng khoán thuộc về lĩnh vực của ngân hàng đầu tư. Sự phân định này giúp hệ thống ngân hàng phần nào thêm tính an toàn và ổn định.
Ngày 22/11/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 141/2006/NĐ-CP quy định về danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng. Theo đó, vốn điều lệ tối thiểu các ngân hàng được yêu cầu ở mức 3000 tỷ đồng. Quy định này cộng với hệ số an toàn vốn tối thiểu 8% được quy định trong Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN nhằm siết chặt hơn hoạt động tín dụng của các ngân hàng.
Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống tín dụng lại dần bộc lộ nhiều rủi ro, yếu kém trong quá trình phát triển của nó theo đà hội nhập và phát triển kinh tế nước nhà.
Hệ thống ngân hàng mở rộng một cách nhanh chóng với một loạt các ngân hàng vừa và nhỏ được thành lập, trong đó, rất nhiều ngân hàng có vốn điều lệ chưa đạt mức 3000 tỷ đồng. Các hoạt động tín dụng phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ. Giữa các ngân hàng đã xuất hiện sự cạnh tranh gay gắt về nguồn vốn huy động và cấp tín dụng cho vay.
Với uy tín có sẵn và mạng lưới chi nhánh rộng lớn, các ngân hàng lớn có lợi thế về mặt huy động vốn, do đó, nguồn vốn huy động được là rất lớn, trong khi khả năng cho vay cũng dừng ở một chừng mực nào đó, nên các ngân hàng này đã dư ra một lượng vốn khá lớn. Ngược lại, các ngân hàng có quy mô nhỏ hay mới thành lập lại gặp nhiều khó khăn về vốn huy động. Vì vậy, xuất hiện sự vay mượn của các ngân hàng này từ các ngân hàng lớn trên thị trường liên ngân hàng. Sử dụng nguồn vốn này để cấp tín dụng cho vay đã tạo nên rủi ro rất lớn trong thanh khoản cho các ngân hàng đó. Bởi vay liên ngân hàng với lãi suất rất thấp thường chỉ để bù đắp những thiếu hụt tạm thời về mặt thanh khoản còn nguồn để cấp tín dụng là từ nguồn vốn huy động từ các cá nhân và tổ chức.
Khi lạm phát ngày càng tăng cao, Ngân hàng Nhà nước thực chính sách thắt chặt tiền tệ bằng những biện pháp như phát hành tín phiếu bắt buộc, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu, nhằm hạn chế cung tiền ra nền kinh tế thì nó cũng nhanh chóng tác động lên tính thanh khoản của các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ. Từ đó, rủi ro thanh khoản của các ngân hàng càng bộc lộ rõ nét.
Bên cạnh rủi ro thanh khoản, việc các ngân hàng thương mại tham gia tích cực vào các hoạt động kinh doanh chứng khoán và bất động sản như cho vay để kinh doanh cổ phiếu, mua bán bất động sản hay lấn sang một số nghiệp vụ khác thuộc lĩnh vực của ngân hàng đầu tư đã tạo ra những rủi ro kinh doanh rất lớn cho các ngân hàng đó. Bởi, thị trường chứng khoán, cũng như thị trường bất động sản Việt Nam vẫn còn đang trong giai đoạn hoàn thiện dần với nhiều kẽ hở trong hành lang pháp lý đã chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn cho các nhà đầu tư. Lợi nhuận có thể gặt hái từ những hoạt động kinh doanh này rất cao, và do đó, rủi ro phát sinh từ chúng cũng rất lớn.
Năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Hoa Kỳ, với nguyên nhân sâu xa từ sự sụp đổ của thị trường nhà đất kéo theo theo sự đổ vỡ của thị trường tài chính, rồi nhanh chóng lan rộng toàn cầu là một bài học quý báu cho các nước, trong đó có Việt Nam, về quản lý nền kinh tế, mà đặc biệt là hệ thống tài chính.
Hiện nay, với xu hướng chung vẫn còn khá ảm đạm cho nền kinh tế thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, thêm vào đó, những quy định trước kia về an toàn tín dụng do Ngân hàng Nhà nước ban hành còn nhiều bất cập, chưa theo sát tình hình thực tế, hệ thống tài chính Việt Nam cần những quy định mới chặt chẽ và khắt khe hơn nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động của các ngân hàng nói riêng, hệ thống tài chính nói chung.
Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Đây là một chủ trương đúng đắn, kịp thời của Ngân hàng Nhà nước, đánh dấu một bước ngoặt cho nền tài chính nước nhà.
Phân tích những nội dung chủ yếu của Thông tư 13
Đối tượng và phạm vi áp dụng – Hiệu lực thi hành của Thông tư 13
Đối tượng và phạm vi áp dụng:
Tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam, trừ Ngân hàng Chính sách Xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam và quỹ tín dụng nhân dân cơ sở.
Hiệu lực thi hành:
Thông tư số 13/2010/TT-NHNN (gọi tắt là Thông tư 13) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/10/2010 và thay thế Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, và các quyết định sửa đổi bổ sung kèm theo: Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/01/2007, Quyết định số 34/2008/QĐ-NHNN ngày 05/12/2008; Khoản 1 và Khoản 2 Điều 4 Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN ngày 01/02/2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
Những nội dung chính của Thông tư 13
Các tỷ lệ bảo đảm an toàn quy định tại Thông tư này gồm:
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
Giới hạn tín dụng
Tỷ lệ khả năng chi trả
Giới hạn góp vốn, mua cổ phần
Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
Tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro của tổ chức tín dụng (tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ). (Khoản 1 Điều 4)
Tổ chức tín dụng phải thực hiện Báo cáo tài chính hợp nhất theo quy định của pháp luật, ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ quy định tại Khoản 1 Điều 4, phải đồng thời duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% trên cơ sở hợp nhất vốn, tài sản của tổ chức tín dụng và công ty trực thuộc (tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất). (Khoản 2 Điều 4)
Tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ bằng thương số giữa vốn tự có và tổng tài sản “Có” rủi ro. Trong đó, vốn tự có là tổng vốn cấp và vốn cấp 2, trừ đi các khoản phải trừ, được quy định cụ thể tại Khoản 2, 3 và 4 Điều 5.
Tổng tài sản “Có” rủi ro là tổng giá trị tài sản “Có” xác định theo mức độ rủi ro và giá trị tài sản “Có” tương ứng của cam kết ngoại bảng xác định theo mức độ rủi ro, được quy định cụ thể tại Khoản 5 và Khoản 6 Điều 5.
Đáng chú ý là hệ số rủi ro của một số tài sản “Có” được nâng lên khá cao so với các quy định trước đây:
Tài sản “Có” có hệ số rủi ro bằng 150% gồm các khoản cho vay các