Nợ quốc gia là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết
những cách tiếp cận hiện nay đều cho rằng, nợ quốc gia là khoản nợ mà Chính phủ
của một quốc gia phải chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Chính vì
vậy, thuật ngữ nợ quốc gia thường được sử dụng cùng nghĩa với các thuật ngữ như
nợ công hay nợ Chính phủ.
Theo quan điểm của ngân hàng thế giới (WB) nợ công là toàn bộ những
khoản nợ của chính phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh.Trong đó:
- Nợ của chính phủ là toàn bộ các khoản nợ trong nước và nước ngoài của
chính phủ và các đại lí của chính phủ;các tỉnh thành phố hoặc các tổ chức chính trị
trực thuộc chính phủ và các đại lí của các tổ chức này, các doanh nghiệp nhà nước.
- Nợ của Chính phủ bảo lãnh là những khoản nợ trong nước và nước ngoài
của khu vực tư nhân do chính phủ bảo lãnh.
Theo quan điểm của quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) nợ công bao gồm nợ của
khu vực tài chính công và nợ khu vực phi tài chính công. Trong đó:
- Khu vực tài chính công gồm: Tổ chức tiền tệ (ngân hàng trung ương, các
tổ chức tín dụng nhà nước) và các tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín dụng không
cho vay mà chỉ có chức năng hỗ trợ phát triển).
- Các tổ chức phi tài chính công như: Chính phủ, tỉnh thành phố, các tổ
chức chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính nhà nước.
27 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2006 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích rủi ro quốc gia - Nợ quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GVHD:PGS-TS Trương Thị Hồng
Nhóm 4-NH Đêm 4-K21 Page 1
Tiểu luận
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA-
NỢ QUỐC GIA
GVHD:PGS-TS Trương Thị Hồng
Nhóm 4-NH Đêm 4-K21 Page 2
1.1. NỢ QUỐC GIA
1.1.1. Khái niệm
Nợ quốc gia là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết
những cách tiếp cận hiện nay đều cho rằng, nợ quốc gia là khoản nợ mà Chính phủ
của một quốc gia phải chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Chính vì
vậy, thuật ngữ nợ quốc gia thường được sử dụng cùng nghĩa với các thuật ngữ như
nợ công hay nợ Chính phủ.
Theo quan điểm của ngân hàng thế giới (WB) nợ công là toàn bộ những
khoản nợ của chính phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh.Trong đó:
- Nợ của chính phủ là toàn bộ các khoản nợ trong nước và nước ngoài của
chính phủ và các đại lí của chính phủ;các tỉnh thành phố hoặc các tổ chức chính trị
trực thuộc chính phủ và các đại lí của các tổ chức này, các doanh nghiệp nhà nước.
- Nợ của Chính phủ bảo lãnh là những khoản nợ trong nước và nước ngoài
của khu vực tư nhân do chính phủ bảo lãnh.
Theo quan điểm của quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) nợ công bao gồm nợ của
khu vực tài chính công và nợ khu vực phi tài chính công. Trong đó:
- Khu vực tài chính công gồm: Tổ chức tiền tệ (ngân hàng trung ương, các
tổ chức tín dụng nhà nước) và các tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín dụng không
cho vay mà chỉ có chức năng hỗ trợ phát triển).
- Các tổ chức phi tài chính công như: Chính phủ, tỉnh thành phố, các tổ
chức chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính nhà nước.
Theo Luật Quản lý nợ công ban hành năm 2009 của Việt Nam quy
định nợ công bao gồm:
- Nợ chính phủ: Là các khoản nợ được kí kết, phát hành nhân danh nhà
nước hoặc chính phủ, các khoản nợ do Bộ Tài Chính kí kết, phát hành hoặc ủy
quyền phát hành; nhưng không bao gồm các khoản nợ do NHNNVN phát hành
nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
GVHD:PGS-TS Trương Thị Hồng
Nhóm 4-NH Đêm 4-K21 Page 3
- Nợ được chính phủ bảo lãnh: là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
- Nợ của chính quyền địa phương: à khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh)
ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ (trong
cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị, hay một tập đoàn kinh tế vay
nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công.
1.1.2. Phân loại nợ công
a. Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay thì nợ công gồm có hai loại là
nợ trong nước và nợ nước ngoài:
- Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt Nam.
- Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng
lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Như vậy, theo
pháp luật Việt Nam, nợ nước ngoài không được hiểu là nợ mà bên cho vay là nước
ngoài, mà là toàn bộ các khoản nợ công không phải là nợ trong nước.
b. Theo phương thức huy động vốn thì nợ công có hai loại là nợ công từ
thỏa thuận trực tiếp và nợ công từ công cụ nợ:
- Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa
thuận vay trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức cho
vay. Phương thức huy động vốn này xuất phát từ những hợp đồng vay, hoặc ở tầm
quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa Nhà nước Việt Nam với bên nước
ngoài.
- Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có
thời hạn ngắn hoặc dài, thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên
thị trường tài chính.
GVHD:PGS-TS Trương Thị Hồng
Nhóm 4-NH Đêm 4-K21 Page 4
c. Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công thì nợ công
có ba loại là nợ công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ
thương mại thông thường.
d. Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công được phân loại thành nợ
công phải trả và nợ công bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà
Chính phủ, chính quyền địa phương có nghĩa vụ trả nợ
e. Theo cấp quản lý nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công của trung
ương và nợ công của chính quyền địa phương:
- Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do Chính phủ
bảo lãnh.
- Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương là
bên vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà
nước năm 2002 thì những khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi là
nguồn thu ngân sách và được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa
phương được Chính phủ đảm bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách
trung ương.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công
Lãi suất thực tế: Khi lãi suất tăng lên: các khoản vay của chính phủ sẽ trở
nên đắt hơn và khó khăn hơn. Nếu không có kế hoạch vay nợ rõ ràng thì sẽ không
đảm bảo vay nợ đúng thời hạn để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư của Chính phủ, làm
ảnh hưởng đến sự bền vững của chính sách tài khóa.
Tốc độ tăng trưởng thực tế: Nền kinh tế càng phát triển thì khoản vay của
Chính phủ sẽ trở nên dễ dàng hơn khi nền kinh tế tăng trưởng chậm. Ngoài ra khi
kinh tế tăng trưởng chậm, người dân cũng như Doanh Nghiệp thắt chặt chi tiêu
hơn, việc tích lũy ít đi và nguồn vay của Chính Phủ sẽ giảm đáng kể. Còn có thể đi
kèm với lạm phát và thất nghiệp,lúc này những khoản trả nợ vay đến hạn còn phải
cấp bù lạm phát.
Tỷ giá thực tế: Ảnh hưởng đến những khoản vay và trả đối với nợ công khi
có những khoản vay nợ nước ngoài. Nếu tỷ giá tăng thì khoản trả nợ vay đến hạn
GVHD:PGS-TS Trương Thị Hồng
Nhóm 4-NH Đêm 4-K21 Page 5
sẽ tăng và ngược lại. Còn khi vay nợ thì tỷ giá tăng đối với khoản vay nợ sẽ có lợi
hơn khi tỷ giá giảm.
1.1.4. Những tác động của nợ công:
Nợ công vừa có nhiều tác động tích cực nhưng cũng có một số tác động tiêu cực.
Nhận biết những tác động tích cực và tiêu cực nhằm phát huy mặt tích cực, hạn
chế mặt tiêu cực là điều hết sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện pháp luật về
quản lý nợ công.
a. Tích cực:
- Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn
vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước.
Việt Nam đang trong giai đoạn tăng tốc phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó cơ sở hạ tầng là yếu tố có tính chất quyết định.
Muốn phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng
nhất. Với chính sách huy động nợ công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được
giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh
tế.
- Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong
dân cư. Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc
Nhà nước vay nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem
lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư.
- Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính
quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế – ngoại giao quan
trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng
như muốn hợp tác kinh tế song phương. Nếu Việt Nam biết tận dụng tốt những cơ
hội này, thì sẽ có thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng,
trên cơ sở tôn trọng lợi ích nước bạn, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền và
chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước
b. Tiêu cực:
GVHD:PGS-TS Trương Thị Hồng
Nhóm 4-NH Đêm 4-K21 Page 6
Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản tài trợ
ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo, nợ công sẽ tỏ ra kém
hiệu quả và tình trạng tham nhũng, lãng phí sẽ tràn lan nếu thiếu cơ chế giám sát
chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công.
1.2. RỦI RO QUỐC GIA
Đối với bất kỳ hoạt động đầu tư nào, vấn đề rủi ro luôn được đề cập đến khi
đánh giá tính hiệu quả của hoạt động đầu tư đó. Ngày nay, trong quá trình toàn cầu
hóa, sự chu chuyển vốn giữa các quốc gia càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Vấn đề xem
xét đánh giá mức độ rủi ro của từng quốc gia được đặt ra cũng trở nên phổ biến
như việc đánh giá rủi ro của bất kỳ hoạt động đầu tư nào đó.
1.2.1. Khái niệm rủi ro quốc gia
Rủi ro quốc gia là rủi ro mà các điều kiện và các sự kiện kinh tế, xã hội,
chính trị ở một quốc gia sẽ ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của một quá trình đầu tư.
Rủi ro quốc gia cũng bao gồm các khả năng quốc hữu hóa hay sung công tài sản,
sự từ chối trả nợ nước ngoài của chính phủ, việc kiểm soát ngoại hối, sự đánh giá
thấp tiền tệ hay mất giá, phá giá tiền tệ
Rủi ro quốc gia còn ám chỉ đến khả năng có thể xảy ra khi mà một chính
phủ hay người đi vay từ một quốc gia cụ thể có thể không có khả năng hay không
sẵn sàng để thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nợ của họ đối với một hay nhiều người
cho vay nước ngoài hay nhà đầu tư nước ngoài. Ví dụ: trong khoảng cuối thập
niên 1990, các ngân hàng Châu Âu và Nhật đã phải gánh chịu rủi ro quốc gia đối
với các nước Nga, Nam Hàn, Malaysia và Indonesia. Nhờ các khoản trợ giúp tài
chính của IMF, WB và chính phủ các nước Mỹ, Nhật, Châu Âu cho các nước này
vay nên các ngân hàng nói trên đã ko phải gánh chịu toàn bộ các thiệt hại.
Rủi ro quốc gia theo Bourke (1990) là khả năng của một quốc gia để tạo ra
đủ dự trữ ngoại hối để đáp ứng cho những nghĩa vụ nợ bên ngoài. Những yếu tố
quan trọng của rủi ro quốc gia là tình trạng hoạt động mậu dịch và mức độ nợ
nước ngoài. Rủi ro quốc gia là một định nghĩa rộng hơn của rủi ro tín dụng và cho
vay xuyên biên giới.
GVHD:PGS-TS Trương Thị Hồng
Nhóm 4-NH Đêm 4-K21 Page 7
Khi thuật ngữ rủi ro quốc gia được sử dụng trong cho vay xuyên biên giới và
người đi vay là chính phủ thì rủi ro tín dụng được biết đến như là rủi ro thể chế
(sovereign risk) hay rủi ro tín dụng quốc gia. Rủi ro tín dụng là rủi ro mà người đi
vay sẽ không hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng vay mượn dẫn đến
những mất mát cho người cung cấp tín dụng hay người cho vay. Rủi ro quốc gia
có thể xem như là những tác động mang tính quốc gia đến thu nhập từ đầu tư.
1.2.2. Phân loại rủi ro quốc gia
Có nhiều quan niệm trong việc phân loại rủi ro quốc gia, trong đó các nhà phân
tích có xu hướng phân loại rủi ro quốc gia vào 5 loại chính: rủi ro kinh tế, rủi ro
chuyển giao, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro vị trí hay vùng lân cận, rủi ro chính trị
Rủi ro chính trị thể hiện tính ổn định về mặt chính trị của một quốc gia mà
có thể ảnh hưởng đến khả năng và thiện chí trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài
chính của mình. Rủi ro chính trị tăng lên từ các sự kiện như chiến tranh, xung đột
nội bộ hay xung đột bên ngoài, khủng bố... dẫn đến những thay đổi trong chính
phủ, thay đổi trong quyền lực kiểm soát chính phủ, cơ cấu xã hội. Loại rủi ro này
bao hàm khả năng tiềm tàng đối với những xung đột bên trong và bên ngoài, rủi ro
sung công. Đánh giá rủi ro này đòi hỏi phân tích nhiều nhân tố bao gồm các mối
quan hệ của các đảng phái khác nhau trong một quốc gia, quá trình ra quyết định
của chính phủ và lịch sử của quốc gia đó.
Rủi ro chuyển giao: là rủi ro phát sinh từ một quyết định bởi chính phủ
một quốc gia về việc hạn chế sự di chuyển của dòng vốn nước ngoài. Những hạn
chế này có thể là: gây khó khăn cho việc chuyển lợi nhuận, cổ tức hay vốn về
nước. Rủi ro chuyển giao cũng có thể hiểu là khả năng mà một tài sản không thể
chuyển đổi sang một đồng tiền thanh toán (đồng tiền có khả năng chuyển đổi) bởi
vì quốc gia vay nợ thiếu ngoại hối cần thiết hay kiềm chế khả năng này. Kiểm soát
ngoại hối là một ví dụ của rủi ro chuyển giao.
Rủi ro tỷ giá là một sự biến động không mong đợi trong tỷ giá hối đoái, ví
dụ như một sự thay đổi từ tỷ giá cố định sang thả nổi. Trong ngắn hạn, rủi ro đối
GVHD:PGS-TS Trương Thị Hồng
Nhóm 4-NH Đêm 4-K21 Page 8
với nhiều đồng tiền có thể được loại bỏ ở một chi phí có thể chấp nhận được thông
qua các cơ chế phòng ngừa khác nhau và các hợp đồng tương lai
Rủi ro vị trí hay rủi ro vùng lân cận bao hàm các hiệu ứng dây chuyền gây
nên bởi những khó khăn trong một khu vực, bởi một nước đối tác của một quốc
gia, hay trong các quốc gia với tính chất tương tự. Chẳng hạn, nếu quốc gia đi vay
nằm bên cạnh một quốc gia đang có chiến tranh thì mức độ rủi ro của quốc gia này
sẽ cao hơn bởi vì mặc dù quốc gia đi vay không liên quan trực tiếp đến cuộc xung
đột nhưng nguy cơ ảnh hưởng từ cuộc xung đột này là tồn tại.Tính chất lây lan thể
hiện tiêu biểu ở các quốc gia Latin vào những năm 1980, sự lây lan ở châu Á vào
năm 1997-1998.
Rủi ro kinh tế-tài chính: thể hiện sức mạnh hay sự yếu kém hiện tại của
nền kinh tế của một quốc gia, khả năng của một quốc gia để đáp ứng cho việc
thanh toán các khoản tín dụng chính thức, thương mại... nước ngoài. Sự đo lường
rủi ro kinh tế bao gồm các đo lường truyền thống về chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ như quy mô và thành phần của chi tiêu chính phủ, chính sách thuế,
tình trạng nợ công, chính sách tiền tệ và tính vững chắc về tài chính.
Rủi ro kinh tế- tài chính phản ánh năng lực chi trả của một quốc gia đối với
các khoản nợ của mình trong khi đó rủi ro chính trị lại phản ánh thiện chí trả nợ
đó.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc phân tích, đánh giá rủi
ro quốc gia
Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm có định hướng xếp hạng khá khác biệt, do
đó, các tiêu chí hình thành nên mức xếp hạng cũng khác nhau. Ngoài ra, đối với
mỗi một đối tượng là doanh nghiệp tư nhân hay tổ chức công, các tiêu chí này
cũng không giống nhau. Ðối với xếp hạng tín nhiệm quốc gia cũng vậy, tùy thuộc
vào đặc điểm của từng quốc gia mà các tổ chức xếp hạng thiết lập nên những tiêu
chí cụ thể và mức độ ảnh hưởng của những tiêu chí đó tới thứ bậc xếp hạng cũng
rất đa dạng. Tuy nhiên, nhìn chung có 4 nhóm nhân tố chính ảnh hưởng tới xếp
hạng tín nhiệm quốc gia như sau:
GVHD:PGS-TS Trương Thị Hồng
Nhóm 4-NH Đêm 4-K21 Page 9
- Tình trạng k inh tế: Nhìn chung đây là nhóm nhân tố ảnh hưởng lớn nhất
tới xếp hạng tín nhiệm quốc gia, bao gồm hầu hết các biến số kinh tế cơ bản của
một quốc gia như: tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm và đầu tư, mức trung chuyển vốn,
việc làm và thất nghiệp, thu nhập quốc dân và hộ gia đình, tình trạng bảo hộ sản
xuất hay phát triển theo hướng thị trường… Ngoài ra, dự báo về khả năng tăng
trưởng hay thu hẹp của nền kinh tế cũng được tính đến.
- Tình trạng tài chính: Nhóm yếu tố này bao gồm cả tình trạng tài chính đối
nội và đối ngoại, các chính sách tài khóa, tiền tệ và tác động của chúng, từ đó phản
ánh tình hình thu nhập và chi tiêu của một quốc gia có linh hoạt và an toàn hay
không. Các chỉ số thường được nhắc tới trong mục này là lạm phát và cán cân
ngân sách.
- Tình trạng nợ: Nợ ở đây được hiểu là nợ của chính quyền trung ương và
địa phương, nợ trong nước và nợ nước ngoài. Bên cạnh tổng số nợ, khả năng trả
nợ, thời hạn trả nợ và nguồn trả nợ cũng được quan tâm.
- Tình trạng chính trị, xã hội: đây là những yếu tố dường như không mấy
liên quan nhưng lại ảnh hưởng khá lớn tới mức độ tín nhiệm của một quốc gia.
Trong đó, mức độ ổn định chính trị, xã hội; độ trong sạch của bộ máy nhà nước và
an ninh quốc gia được đặt lên hàng đầu.
1.2.4. Vai trò của việc đánh giá rủi ro quốc gia- xếp hạng tín
nhiệm quốc gia
Đánh giá rủi ro quốc gia là việc sử dụng các dữ liệu thống kê hay các nhận
xét định tính của các chuyên gia nhằm đưa ra một xếp hạng cho từng quốc gia ứng
với mức độ rủi ro của quốc gia đó
Một chức năng chính của đánh giá rủi ro quốc gia là để lường trước khả năng bội
ước, không thể trả nợ hay trì hoãn thanh toán của chính phủ đi vay. Đánh giá rủi ro
quốc gia cũng là để dự báo các điều kiện tương lai đối với việc đầu tư trong một
quốc gia. Đánh giá rủi ro quốc gia đo lường các nhân tố kinh tế, tài chính, chính trị
và tác động qua lại giữa các nhân tố này nhằm xác định rủi ro gắn liền với một
quốc gia cụ thể.
GVHD:PGS-TS Trương Thị Hồng
Nhóm 4-NH Đêm 4-K21 Page 10
Đánh giá rủi ro quốc gia có vai trò quan trọng vì nó biểu hiện mức độ rủi ro của
một quốc gia. Do đó nó không chỉ quan trọng đối với chính phủ của quốc gia được
đánh giá rủi ro quốc gia mà còn rất quan trọng đối với các nhà đầu tư và các nhà
cho vay quốc tế.
Thông qua việc đánh giá rủi ro quốc gia, chính phủ tự đánh giá hay thông
qua các cơ quan xếp hạng tín nhiệm, thì các chính phủ có thể nhận biết được thực
trạng nên kinh tế, những yếu kém và triển vọng của quốc gia. Từ đó có thể đề ra
các chính sách biện pháp mang tính vĩ mô nhằm khắc phục để dần nâng cao mức
tín nhiệm trên trường quốc tế, thu hút nhiều hơn vốn đầu tư quóc tế để đạt được
mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Thêm vào đó với việc cải thiện mức rủi ro quốc gia
của mình thì chính phủ một quốc gia sẽ giảm thiểu được chi phí vay mượn trên thị
trường quốc tế vì nguyên tắc tài chính cơ bản chỉ ra rằng rủi ro càng cao thì phần
bù càng cao
Các nhà đầu tư cũng như chính phủ sẽ thông qua việc đánh giá rủi ro quốc
gia để nhận biết được mức độ rủi ro chung của quốc gia từ đó so sánh với mức độ
rủi ro của riêng mình để có các chiến lược đầu tư cụ thể và vững chắc nhằm thu
được tỷ suất sinh lợi cao nhất
Đánh giá rủi ro quốc gia cung cấp cho các nhà cho vay quốc tế và các nhà
đầu tư quốc tế biết được khả năng thu hồi các khoản vốn vay của mình và mức thu
nhập kỳ vọng có được từ đầu tư. Tiến trình đánh giá rủi ro quốc gia nhằm cung
cấp các thông tin tốt nhất cho việc dự báo các khả năng có thể xảy ra, là một công
cụ giúp các nhà cho vay và đầu tư quốc tế ra quyết định cho vay hay đầu tư vào
một quốc gia cụ thể
Xếp hạng rủi ro quốc gia ảnh hưởng đến mức lãi suất mà quốc gia có thể
đạt được một khoản tín dụng trên thị trường quốc tế: xếp hạng cao (tức là mức độ
rủi ro thấp) thì lãi suất sẽ thấp và ngược lại. Thực tế đã chứng minh là theo sau
một sự hạ thấp mức xếp hạng, việc vay mượn của chính phủ sẽ trở nên đắt đỏ hơn
do lãi suất tăng lên, phản ánh nguy cơ vỡ nợ cao hơn.
GVHD:PGS-TS Trương Thị Hồng
Nhóm 4-NH Đêm 4-K21 Page 11
Các định chế đầu tư thường giới hạn mức rủi ro mà họ có thể chấp nhận,
điều này ngụ ý rằng họ không thể đầu tư vào các khoản nợ bị xếp hạng thấp hơn
một mức đã định. Các nhà nghiên cứu nêu ra rằng xếp hạng rủi ro quốc gia chủ
yếu dành cho các quốc gia đang phát triển, đây là những quốc gia có độ nhạy cảm
cao đối với những công bô xếp hạng.
Đối với thị trường tài chính, giới đầu tư gần như phản ứng ngay lập tức với mỗi
lần xếp hạng lên xuống của “Big3” xếp hạng tín nhiệm. Các nhà đầu tư lớn như
ngân hàng, quỹ bảo hiểm, lương hưu bị buộc phải bán ra những trái phiếu bị xếp
hạng ở mức đầu cơ, trong khi các nhà đầu tư nhỏ hơn lại chịu ảnh hưởng và đôi
khi là ăn theo những nhà đầu tư lớn này. Vì vậy xuất hiện hiện tượng một loại trái
phiếu bị từ bỏ không phải vì không có khả năng phục hồi mà vì hành động của các
tổ chức xếp hạng tín dụng dẫn tới thị trường rút vốn hàng loạt. Ðó là chưa kể đến
những tin đồn thất thiệt về việc nâng lên hay hạ xuống sắp tới của các tổ chức này
cũng là đòn không nhỏ đánh vào các con nợ đang khốn đốn. Lấy ví dụ sự kiện
S&P buộc trái phiếu Mỹ rời khỏi mức xếp hạng cao nhất AAA xuống AA+ ngày
5/8/2011. Trước đó một vài ngày, tin đồn S&P sắp hạ mức tín nhiệm của Mỹ do lo
ngại ảnh hưởng của nợ công Châu Âu tác động đến nước này đã lan tràn khắp thị
trường, trong ngày 4/8/2011, một loạt các chỉ số chứng khoán sụt giảm, trong đó
Dow Jone giảm 4%, đồng USD lên giá 1,3% so với Euro và vàng đạt đỉnh mới ở
mức USD1.680. Và khi sự thật xảy ra ngày 5/8, giới đầu tư đồng loạt tháo chạy
sang các loại tín phiếu kho bạc Mỹ với mức độ an toàn cao hơn nhiều. Hệ quả là
tín phiếu kho bạc thời hạn 10 năm giảm lợi suất xuống 2,33%, tín