Chặng đường gần 20 năm hình thành và phát triển của thịtrường bất động sản (BĐS) Việt Nam đã 
có ảnh hưởng tích cực nhiều mặt đến sựphát triển kinh tế- xã hội của đất nước; thu hút nhiều nguồn 
vốn đầu tưtrong và ngoài nước; góp phần chỉnh trang đô thị; tham gia kích cầu và từng bước cải thiện 
nhu cầu nhà ởcho nhân dân Bên cạnh đó, thị trường BĐS ởnước ta còn bộc lộnhiều hạn chế, phát 
tri ển thiếu lành mạnh và không bền vững. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên mà nguyên 
nhân quan trọng là chính sách thuếliên quan đến BĐS, trong đó có chính sách thuếthu nhập cá nhân 
(TNCN) đối với chuyển nhượng BĐS áp dụng ởnước ta hiện nay còn nhiều bất cập, chưa thểhiện 
được vai trò đi ều tiết của thuếtrong nền kinh tếthị trường, hiện tượng lách thuế, trốn thuếcòn phổ
biến gây thất thu cho ngân sách nhà nước. 
Nhưchúng ta đã biết Nhà nước sửdụng thuếlàm công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, điều hòa thu 
nhập, thực hiện công bằng xã hội và là công cụchủyếu huy động nguồn lực vật chất cho Nhà nước. 
Đối với thịtrường BĐS, một thị trường còn non trẻ, phát tri ển chưa đồng đều, hiện tượng “sốt giá”, 
“đóng băng” thường xuyên xảy ra có tính chất chu kỳ, tạo ra nhiều rủi ro ti ềm ẩn cho thị trường BĐS 
nói riêng, nền kinh tếnói chung. Vì vậy, hoàn thiện chính sách thuếTNCN đối với chuyển nhượng 
BĐS trong giai đoạn hiện nay là thực hiện quản lý và điều tiết của nhà nước đối với thịtrường BĐS, 
tạo tiền đềquan trọng cho thịtrường BĐS phát triển bền vững. Vì lý do đó, bài nghiên cứu này nhằm 
mục tiêu chính là hoàn thiện chính sách thuếTNCN đối với chuyển nhượng BĐS nhằm phát triển thị
trường BĐS Việt Nam lành m ạnh, bền vững, đồng thời tăng thu ngân sách nhà nước.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 23 trang
23 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3522 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích tác động của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH 
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC 
-------------------- 
MÔN HỌC 
PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH THUẾ 
BÀI TIỂU LUẬN: 
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ THU 
NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ 
CHUYỂN NHƯỢNG BẤT ĐỘNG SẢN 
GVHD :PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng 
HVTH :Thái Vũ Thu Trang 
Lớp : Ngân hàng Đêm 6 – K20 
TP.HCM, tháng 08 năm 2012 
MỤC LỤC 
 Trang 
LỜI MỞ ĐẦU 
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ....................................... 2 
1. Lịch sử hình thành và phát triển....................................................................................... 2 
2. Vai trò............................................................................................................................. 2 
3. Đối tượng nộp thuế.......................................................................................................... 4 
4. Thu nhập chịu thuế .......................................................................................................... 5 
5. Thuế suất......................................................................................................................... 6 
6. Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở một số nước.................................................................. 9 
Chương 2: TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ 
CHUYỂN NHƯỢNG BẤT ĐỘNG SẢN ......................................................................... 11 
1 Chính sách thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam............................................................... 11 
1.1 Lý do ban hành.......................................................................................................... 11 
1.2 Hệ quan điểm ............................................................................................................ 12 
2 Chính sách Thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản tại Việt 
Nam................................................................................................................................... 13 
2.1 Đối tượng chịu thuế .................................................................................................. 13 
2.2 Đối tượng miễn thuế ................................................................................................. 13 
2.3 Mức thuế TNCN tính trên thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản .......................... 13 
3. Tác động của thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản ................... 14 
4. Những tồn tại cần hoàn thiện.......................................................................................... 15 
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ TNCN ĐỐI VỚI THU 
NHẬP TỪ CHUYỂN NHƯỢNG BĐS TẠI VIỆT NAM ................................................ 20 
KẾT LUẬN 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Phân tích tác động của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản 
-1/21- 
LỜI MỞ ĐẦU 
1. Lý do nghiên cứu đề tài: 
Chặng đường gần 20 năm hình thành và phát triển của thị trường bất động sản (BĐS) Việt Nam đã 
có ảnh hưởng tích cực nhiều mặt đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; thu hút nhiều nguồn 
vốn đầu tư trong và ngoài nước; góp phần chỉnh trang đô thị; tham gia kích cầu và từng bước cải thiện 
nhu cầu nhà ở cho nhân dân… Bên cạnh đó, thị trường BĐS ở nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, phát 
triển thiếu lành mạnh và không bền vững. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên mà nguyên 
nhân quan trọng là chính sách thuế liên quan đến BĐS, trong đó có chính sách thuế thu nhập cá nhân 
(TNCN) đối với chuyển nhượng BĐS áp dụng ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập, chưa thể hiện 
được vai trò điều tiết của thuế trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng lách thuế, trốn thuế còn phổ 
biến gây thất thu cho ngân sách nhà nước. 
Như chúng ta đã biết Nhà nước sử dụng thuế làm công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, điều hòa thu 
nhập, thực hiện công bằng xã hội và là công cụ chủ yếu huy động nguồn lực vật chất cho Nhà nước. 
Đối với thị trường BĐS, một thị trường còn non trẻ, phát triển chưa đồng đều, hiện tượng “sốt giá”, 
“đóng băng” thường xuyên xảy ra có tính chất chu kỳ, tạo ra nhiều rủi ro tiềm ẩn cho thị trường BĐS 
nói riêng, nền kinh tế nói chung. Vì vậy, hoàn thiện chính sách thuế TNCN đối với chuyển nhượng 
BĐS trong giai đoạn hiện nay là thực hiện quản lý và điều tiết của nhà nước đối với thị trường BĐS, 
tạo tiền đề quan trọng cho thị trường BĐS phát triển bền vững. Vì lý do đó, bài nghiên cứu này nhằm 
mục tiêu chính là hoàn thiện chính sách thuế TNCN đối với chuyển nhượng BĐS nhằm phát triển thị 
trường BĐS Việt Nam lành mạnh, bền vững, đồng thời tăng thu ngân sách nhà nước. 
2. Mục tiêu nghiên cứu 
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm vào việc phân tích, đánh giá tác động và những tồn tại của 
chính sách thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng BĐS trong thời gian qua. Từ đó tìm ra 
những biện pháp để giải quyết những hạn chế của chính sách và góp phần xây dựng những giải pháp 
phù hợp để hoàn thiện chính sách thuế nhằm đáp ứng những yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế 
quốc tế. 
3. Phạm vi nghiên cứu 
Để đạt được mục tiêu nêu trên, bài nghiên cứu tập trung hướng đến các mục tiêu cụ thể sau: 
Chương I: Những vấn đề cơ bản về thuế TNCN. 
Chương II: Tác động của thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng BĐS tại Việt Nam 
Chương III: Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế TNCN đối với chuyển nhượng BĐS tại Việt 
Nam 
Do còn hạn chế về mặt thời gian và kiến thức nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất 
mong ý kiến đóng góp của thầy để đề tài được hoàn chỉnh hơn. 
Phân tích tác động của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản 
-2/21- 
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 
1. Lịch sử hình thành và phát triển 
Thuế TNCN (TNCN) là loại thuế đánh vào thu nhập của một cá nhân tại thời điểm thu nhập mà 
không tính đến mục đích sử dụng của cá nhân đối với các thu nhập đó (Michel Bouvier- Nhập môn 
Luật thuế đại cương và lý thuyết thuế - 2005) 
Mặc dù trong thời kỳ trung cổ, ở một số thành phố ở Italia, người ta cũng đã tiến hành đánh thuế 
đối với thu nhập của các cá nhân, nhưng thuế TNCN, về bản chất, là một loại thuế hiện đại, chỉ ra đời 
khi xã hội loài người đã có một số điều kiện kinh tế cơ bản như: có nền kinh tế tiền tệ, có việc thanh 
toán qua tài khoản và các khái niệm về hóa đơn, chi phí và lợi nhuận đã được xã hội thừa nhận và đưa 
vào sử dụng rộng rãi. 
Đạo luật thuế thu nhập đầu tiên theo đúng bản chất được William Pitt thi hành ở Anh Quốc vào 
năm 1799 để trang trải cho cuộc chiến tranh với Napoleon. Sau một vài lần áp dụng các loại thuế thu 
nhập tạm thời, đến năm 1874, thuế TNCN đã được áp dụng lâu dài tại nước này. 
Đạo luật thuế thu nhập đầu tiên ở Hoa Kỳ được ban hành vào năm 1864 trong cuộc nội chiến 
nhưng bị tạm dừng thu vào năm 1872 vì bị cho là trái với Hiến pháp do thu trực tiếp đối với người dân 
dẫn đến việc các bang có số dân khác nhau phải nộp số thuế khác nhau. Việc thông qua Hiến pháp sửa 
đổi lần thứ 16 vào năm 1913 đã đặt cơ sở pháp lý cho việc áp dụng thuế thu nhập đánh dấu bước 
chuyển biến trong cơ cấu thuế ở Hoa Cho đến nửa cuối thế kỷ 19, luật thuế TNCN đã trở nên phổ biến 
trên thế giới với hàng loạt các nước Châu Âu cũng như Australia, New Zealand, Nhật Bản đưa ra các 
đạo luật về thuế TNCN của mình. 
Trong thời kỳ mới ban hành, các Chính phủ thường đánh thuế vào đối tượng dễ đo lường được như 
đánh trên đất đai, tài sản, hàng hoá hữu hình…. Tuy nhiên, qua quá trình phát triển về kinh tế, xã hội 
của từng nước, thuế TNCN cũng đã có những thay đổi cho phù hợp hơn, thực hiện được những mục 
tiêu mà mỗi nhà nước đặt ra khi áp dụng loại thuế này. Cho đến nay, thuế thu nhập các nhân đã trở nên 
một loại thuế phổ biến, được áp dụng ở gần 180 nước trên thế giới với những thay đổi nhất định về 
phương thức đánh thuế. 
2. Vai trò 
2.1 Vai trò kinh tế 
Có thể thấy rằng, thuế TNCN thường đóng vai trò quan trọng trong hệ thống thuế của một nước. 
Một mặt, nguồn thu từ việc thu thuế TNCN góp một phần lớn vào tổng nguồn thu ngân sách quốc gia, 
mặt khác, thuế TNCN còn được sử dụng như một công cụ để điều tiết nền kinh tế. 
Ở nhiều nước, nguồn thu từ thuế TNCN được xem là một phần quan trọng của ngân sách. Thông 
thường, tỷ lệ của nguồn thu này trên GDP hàng năm vào khoảng xấp xỉ 10% và trên tổng nguồn thu từ 
thuế vào khoảng 25%. Đặc biệt ở một số nước như Đan Mạch, New Zealand, Australia.. nguồn thu từ 
thuế TNCN có vai trò chủ chốt đối với ngân sách quốc gia. Vào năm 2005, ở Đan Mạch, thu từ thuế 
TNCN chiếm 53% tổng lượng thuế thu được và chiếm trên 25% tổng thu ngân sách. 
Điều đáng chú ý là nguồn thu từ thuế TNCN ở các nước đang phát triển chỉ chiếm một tỷ trọng 
nhỏ trong tổng nguồn thu ngân sách. Chẳng hạn, trong khu vực Đông Nam Á với nhiều quốc gia ở 
Phân tích tác động của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản 
-3/21- 
diện đang phát triển, nguồn thu từ thuế thu nhập chỉ chiếm trung bình 2.1% tổng số thu ngân sách của 
các nước 
Ngoài tác động làm tăng nguồn thu ngân sách quốc gia, đến cuối những năm 1970, thuế TNCN 
còn có một vai trò mới là nhằm điều tiết, định hướng sự phát triển kinh tế với sự xuất hiện của cơ chế 
đánh thuế thu nhập thuế suất kép. Đây là cơ chế đánh thuế TNCN với các mức suất khác nhau đối với 
thu nhập do sức lao động đưa lại và thu nhập do đầu tư vốn đưa lại. Khi một nước áp dụng mức thuế 
suất cao đối với thu nhập từ việc đầu tư vốn, có thể sẽ làm hạn chế nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế, 
làm cho nền kinh tế phát triển chậm lại theo ý muốn của Chính phủ. Hoặc ngược lại, việc miễn hoặc 
giảm thuế TNCN đối với một khoản đầu tư nào đó sẽ làm khuyến khích các nguồn vốn đầu tư vào lĩnh 
vực này. Đây là kinh nghiệm của Thái Lan trong năm 2006. Để khuyến khích người dân Thái đầu tư 
vào thị trường chứng khoán, nước này đã áp dụng chính sách miễn thuế thu nhập cho những giao dịch 
đứng tên cá nhân. 
2.2 Vai trò điều tiết Xã Hội 
Trước hết, luật thuế TNCN phân phối lại của cải, thu nhập trong xã hội. Trong bối cảnh nền kinh 
tế của các nước ngày càng phát triển, sự cách biệt giàu – nghèo ngày càng lớn thì việc áp dụng thuế 
TNCN là một giải pháp hữu hiệu, góp phần thực hiện chức năng xã hội của nó. Điều này thể hiện ở 
những điểm như: 
- Cơ cấu thuế suất thường mang tính chất luỹ tiến, nghĩa là người có thu nhập cao thì phải chịu 
thuế cao hơn người có thu nhập thấp; 
- Thuế TNCN thường được thiết kế để đảm bảo những người có thu nhập thấp thực sự sẽ không 
phải chịu ảnh hưởng của thuế TNCN. Để thực hiện điều đó, nhà nước đưa ra quy định trong hệ 
thống thuế về ngưỡng tính thuế và số tiền miễn thuế. Như vậy, nếu những cá nhân có thu nhập 
chưa đến ngưỡng phải chịu thuế sẽ không phải nộp thuế. Chính những đặc điểm này làm cho 
Luật thuế TNCN được xem như là công cụ phù hợp để giảm bớt sự nghèo đói. 
Thứ hai, việc đánh thuế đối với cá nhân được thiết kế phù hợp với khả năng đóng góp và có xem 
xét đến hoàn cảnh cá nhân của người nộp thuế. Ở một số quốc gia, luật thuế TNCN thường đánh vào 
tất cả các khoản thu nhập của người nộp thuế mà không xét đến thu nhập đó đến từ đâu, ở chỗ nào và 
mục đích sử dụng chúng ra sao. Tuy nhiên, hiện nay có một xu hướng thống nhất là hoàn cảnh gia 
đình của cá nhân người nộp thuế sẽ được xem xét để chiết giảm khoản thuế phải nộp. 
Thứ ba, thuế TNCN làm tăng ý thức của công dân trong việc giám sát nguồn chi tiêu ngân sách 
của Chính phủ. Thuế TNCN là một loại thuế trực thu. Khác với các loại thuế gián thu khác, qua thuế 
trực thu người dân sẽ biết rõ ai là người nộp thuế và ý thức được vai trò của mình đối với nguồn thu 
ngân sách của quốc gia. Bằng cách nộp thuế để nuôi sống nhà nước, người đóng thuế thể hiện quyền 
lực của mình đối với nhà nước: nhà nước do dân (dân bầu ra nhà nước), của dân (dân nuôi nhà nước), 
vì thế, phải phục vụ dân (vì dân). Từ đó, người dân sẽ có ý thức hơn đến việc giám sát các nguồn chi 
tiêu của Chính phủ với tư cách là một khách hàng giám sát việc sử dụng chi phí của mình đã trả (qua 
thuế) cho các dịch vụ công do Nhà nước thực hiện. Về vấn đề này, Giáo sư Michel Bouvier đã nhận 
xét: Thuế ngày càng thể hiện giống như là hình thức trả giá cho dịch vụ được các tổ chức thụ hưởng 
thuế cung cấp hơn là biểu hiện của mối tương trợ đoàn kết hay thực hiện nghĩa vụ xã hội. Về phần 
Phân tích tác động của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản 
-4/21- 
mình, người nộp thuế lưu tâm hơn đến vấn đề sử dụng tiền thuế của Nhà nước. Bản thân họ tự coi 
mình là một khách hàng nhiều hơn là người sử dụng tài sản công. 
3. Đối tượng nộp thuế 
3.1 Dựa trên phương pháp kê khai thu thuế 
Có hai cách xác định đối tượng nộp thuế là dựa trên các cá nhân nộp thuế và có theo hộ gia đình 
nộp thuế. 
Theo cá nhân: Cách thu thuế hoàn toàn theo từng cá nhân nộp thuế là cách thức quy định từng đối 
tượng nộp thuế phải kê khai thu nhập và đóng thuế theo từng cá nhân. Cách thức này được áp dụng 
phổ biến ở Anh, Nhật, Thụy Điển, các nước Châu Phi, các nước Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô 
cũ,.... 
Ưu điểm của cách thức này là đơn giản, dễ thực hiện, đảm bảo thu kịp thời vào ngân sách Nhà 
nước. Nhưng có nhược điểm là chưa đảm bảo yêu cầu phân phối lại thu nhập quốc dân qua thuế sao 
cho có hiệu quả và đáp ứng được sự công bằng xã hội và nhất là đối với những cá nhân có nhiều khẩu 
ăn theo. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu đảm bảo công bằng xã hội, hiện nay phương pháp thu thuế 
theo cá nhân cũng đề cập yếu tố gia đình bằng cách trước khi xác định thu nhập chịu thuế của cá nhân 
thì cá nhân sẽ được trừ chi phí cho bản thân, chi phí nuôi con, nuôi bố mẹ già... (gọi chung là chiết trừ 
gia cảnh – xem các phần dưới). Về chi phí nuôi con, tuỳ chính sách xã hội của từng nước là khuyến 
khích hay không khuyến khích gia đình nhiều con mà mức trừ sẽ cho trừ nhiều hay ít. Tuy nhiên, cách 
thức chiết trừ này dễ dẫn tới hiện tượng lợi dụng quy định khấu trừ cho con hoặc bố mẹ mà kê khai 
khấu trừ hai nơi. Khắc phục tình trạng này, một số nước đã yêu cầu mọi người thuộc diện kê khai khấu 
trừ phải kê mã số nhận dạng cá nhân, qua đó cơ quan thuế sẽ phát hiện cá nhân nào được kê khai hai 
nơi. 
Theo hộ gia đình: Cách thức thu thuế theo hộ gia đình là cách thức thu cho phép những người 
trong một hộ gia đình (có quan hệ hôn nhân hoặc huyết thống) được kê khai theo tổng thu nhập của hộ 
gia đình và sau đó khoản thu nhập này được chia cho mọi người trong đó có cả người không có thu 
nhập. Các khoản thu nhập này sau đó sẽ được tính thuế cho từng suất và từng suất thuế lại nhân với số 
suất để xác định số thuế phải nộp. Cách thứ hai được áp dụng ở Pháp, Hà Lan.... Ví dụ ở Cộng hòa 
Pháp, đối tượng cư trú ở Pháp được kê khai nộp thuế theo hộ thuế. Hộ thuế bao gồm người nộp thuế 
và người nuôi dưỡng. Người nộp thuế có thể là các cá nhân độc thân (vẫn được coi là một hộ thuế với 
một suất thuế) hoặc những người trong hộ gia đình (có quan hệ hôn nhân hoặc huyết thống) có thu 
nhập đóng thuế. Người nuôi dưỡng là các con chưa đến tuổi thành niên, người tàn tật... trong hộ gia 
đình. Việc tính thuế theo hộ gia đình phải quy đổi từng thành viên trong hộ gia đình thành các suất 
thuế. Pháp quy định tính suất thuế cho mỗi gia đình như sau: 
 Độc thân, Vợ chồng 1 suất; 
 Không có người phải nuôi dưỡng 2 suất; 
 Có 1 người phải nuôi dưỡng 2,5 suất; 
 Có 2 người phải nuôi dưỡng 3 suất; 
 Có 3 người phải nuôi dưỡng 4 suất; 
 Có trên 3 người phải nuôi dưỡng Cộng thêm 1 suất cho mỗi người 
Phân tích tác động của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản 
-5/21- 
Sau khi xác định thu nhập của mỗi suất thuế, áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần để tính số thuế 
phải nộp và lại nhân với số lượng suất thuế để xác định tổng số thuế phải nộp trong năm của gia đình 
đó. Các chuyên gia cho rằng cách thức thu thuế theo hộ gia đình công bằng hơn về mặt đạo đức xã hội 
nhưng không kịp thời vì mỗi gia đình đều phải có ít nhất hai người trở lên. Ðã có nhiều người thì sẽ có 
nhiều khoản thu nhập khác nhau, do đó phải mở sổ sách kế toán, theo dõi từng nguồn thu nhập và phải 
đối chiếu với nơi phát sinh thu nhập. Quy định này chỉ được thực hiện tốt với điều kiện là gia đình ổn 
định. Do cách tính và thực thi phức tạp như vậy nên có rất ít nước áp dụng phương thức thu thuế theo 
cách này. 
3.2 Dựa trên sự phân biệt đối tuợng cư trú và không cư trú 
Thuế TNCN là một trong những sắc thuế có diện áp dụng rộng nhất trong số các sắc thuế đóng góp 
vào nguồn ngân sách nhà nước. Thuế TNCN không chỉ điều chỉnh đối với cá nhân là công dân của 
nước đó mà còn điều chỉnh đối với cả những cá nhân nước ngoài sinh sống và làm việc trên lãnh thổ 
của quốc gia đó dựa trên sự phân biệt đối tượng cư trú và đối tượng không cư trú. 
Thông thường, pháp luật các nước xác định đối tượng cư trú là những người cư trú ở nước đó 
trong một khoảng thời hạn nhất định (thường là một năm). Chẳng hạn, theo pháp luật Nhật Bản, đối 
tượng cư trú là những người đã sống từ lâu hay đã và đang định cư tại Nhật Bản trong một một thời 
gian liên tục từ 1 năm trở lên. Hàn Quốc và Trung Quốc cũng có quy định tương tự. Nhìn chung, pháp 
luật các nước quy định đối tượng cư trú phải chịu thuế trên toàn bộ thu nhập toàn cầu của mình nghĩa 
là toàn bộ thu nhập của người nộp thuế bị đánh thuế tại các nước cư trú bất kể thu nhập đó kiếm được 
ở đâu. Chẳng hạn, pháp luật của Trung Quốc quy định đối tượng cư trú ở Trung Quốc phải nộp thuế 
đối với toàn bộ thu nhập của người đó nhận được từ trong và ngoài nước Trung Quốc. Ngược lại, đối 
tượng không cư trú thường được quy định là những người cư trú tại nước sở tại trong thời hạn dưới 1 
năm. Các đối tượng này thường không phải nộp thuế đối với những thu nhập không có nguồn gốc tại 
nước sở tại. Ví dụ, pháp luật của Hàn Quốc quy định những đối tượng không cư trú chỉ phải chịu thuế 
đối với khoản thu nhập nhận được có nguồn gốc từ Hàn Quốc. 
Ngoài ra, cũng có những nước không có sự phân biệt giữa đối tượng cư trú và đối tượng không cư 
trú trong việc xác định khoản thu nhập chịu thuế. Chẳng hạn, ở Malaysia, Singapore, Hồng Kông, cả 
đối tượng cư trú và đối tượng không cư trú đều không phải chịu thuế đối với các khoản thu nhập có từ 
nước ngoài (đánh thuế trên cơ sở lãnh thổ). Ngược lại, pháp luật của Thái Lan lại quy định cả đối 
tượng cư trú và đối tượng không cư trú đều phải chịu thuế đối với các thu nhập của mình mà không 
phụ thuộc vào việc thu nhập đó phát sinh trong hay ngoài Thái Lan. 
4. Thu nhập chịu thuế 
Xuất phát từ sự khác nhau trong việc xác định nguyên tắc đánh thuế nên các loại thu nhập chịu 
thuế giữa các quốc gia cũng có sự khác nhau. Một loại thu nhập nào đó có thể thuộc diện thu nhập 
chịu thuế của quốc gia này nhưng đối với quốc gia khác nó lại là thu nhập thuộc diện được miễn 
thuế… Hoặc cũng có trường hợp một khoản thu nhập ở nước này có thể bị đánh thuế theo loại thuế 
này nhưng ở nước khác có thể phải chịu thuế theo loại thuế khác. Ví dụ, thu nhập từ kinh doanh của 
một cá nhân bị đánh thuế tại nhiều quốc gia theo quy định của Luật thuế TNCN nhưng tại một số quốc 
gia khác lại bị áp dụng theo luật thuế thu nhập của công ty hoặc thuế thu nhập từ việc chuyển nhượng 
tài sản. 
Phân tích tác động của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản 
-6/21- 
Tuy nhiên, có thể khái quát các loại thu nhập chịu thuế TNCN theo thông lệ pháp luật của các 
nước trên thế giới gồm: 
- Thu nhập kinh doanh 
- Thu nhập làm công 
- Thu nhập từ đầu tư (kể cả tiền lãi cổ phần, tiền lãi vay); 
Ngoài ra còn có các yếu tố thu nhập khác, thường xuất hiện trong một luật thuế TNCN là: 
- Tiền lương hưu và các khoản tiền bảo hiểm; 
- Các khoản thanh toán bảo hiểm xã hội; 
- Thu nhập từ việc nắm giữ cổ phần; 
- Thu nhập chuyển nhượng tài sản 
* Cụ thể về thu nhập chịu thuế ở một số quốc gia như sau: 
 Luật t