Aristoteles là nhà triết học, tựnhiên học danh tiếng nhất của nền văn minh Hy
Lạp cổ. Cuộc đời ông là một câu chuyện thú vịbởi ngoài tưcách là một nhà
khoa học vĩ đại thời cổông còn là một người học trò lớn của nhà triết học
Platon, là một người thầy, một người bạn tâm giao của nhà quân sựvà chính trị
lẫy lừng nhất thời bấy giờ- Alexander Đại Đế. Với những gì mà ông đểlại bao
gồm hệthống các ghi chép đểnói chuyện hoặc giảng bài, bao quát rất nhiều
ngành kiến thức khác nhau như: sinh học, tâm lý, chiêm tinh học, địa lý học, địa
chất học, giải phẫu học, lý luận triết học siêu hình, thẩm mĩhọc, chính trị, thơca
và văn biện luận. Có nhận định cho rằng: Aristoteles là ”Bộóc bách khoa toàn
thưthời cổHy Lạp”, một nhà tưtưởng thông hiểu tất cảsựvật sựviệc trong thế
giới này lúc bấy giờ. Liệu nhận định trên hay câu nói ”Những gì mà người Hy
Lạp biết, Aristoteles đều biết” chỉlà những mỹtừdành cho ông? Bởi trước và
sau thời ông cũng có rất nhiều các nhà tưtưởng Hy Lạp vĩ đại nhưSocrates,
Platon.Chúng ta cùng tìm hiểu.
31 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1995 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích và chứng minh nhận định sau: các nhà triết học cổ hy lạp là những nhà biện chứng bẩm sinh, còn aristoteles là ”bộ óc bách khoa toàn thư” thời cổ hy lạp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN MÔN
TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI 10: Phân tích và chứng minh nhận định sau:
CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ HY LẠP LÀ NHỮNG
NHÀ BIỆN CHỨNG BẨM SINH, CÒN
ARISTOTELES LÀ ”BỘ ÓC BÁCH KHOA TOÀN
THƯ” THỜI CỔ HY LẠP.
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
SVTH: ĐINH VŨ HỒNG LINH
LỚP: ĐÊM 1 – K.19
TP.HCM, tháng 02 năm 2010
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
Nội dung Trang
Lời nói đầu..............................................................................................2
1. Tổng quan về triết học Hy Lạp cổ.................................................3
1.1. Giới thiệu..................................................................................3
1.2. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tiêu biểu.................................3
2. Cuộc đời của Aristoteles.................................................................6
3. Aristoteles – ”Bộ óc bách khoa toàn thư” của nhân loại thời cổ Hy
Lạp.....................................................................................................10
3.1. Logic học.................................................................................12
3.2. Khoa học xã hội.......................................................................14
3.2.1. Ngôn ngữ và Nghệ thuật..............................................14
3.2.2. Quan niệm về Đạo đức.................................................14
3.2.3. Quan niệm về Chính trị ‐ xã hội...................................16
3.3. Khoa học tự nhiên...................................................................17
3.3.1. Vật lý học.....................................................................17
3.3.2. Siêu hình học................................................................18
3.3.3. Thiên văn học...............................................................19
3.3.4. Thực vật học và sinh học..............................................19
3.4. Triết học..................................................................................22
4. Ảnh hưởng của Aristoteles...........................................................29
Kết luận..................................................................................................31
Tài liệu tham khảo...............................................................................32
SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 1
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
LỜI NÓI ĐẦU
Aristoteles là nhà triết học, tự nhiên học danh tiếng nhất của nền văn minh Hy
Lạp cổ. Cuộc đời ông là một câu chuyện thú vị bởi ngoài tư cách là một nhà
khoa học vĩ đại thời cổ ông còn là một người học trò lớn của nhà triết học
Platon, là một người thầy, một người bạn tâm giao của nhà quân sự và chính trị
lẫy lừng nhất thời bấy giờ- Alexander Đại Đế. Với những gì mà ông để lại bao
gồm hệ thống các ghi chép để nói chuyện hoặc giảng bài, bao quát rất nhiều
ngành kiến thức khác nhau như: sinh học, tâm lý, chiêm tinh học, địa lý học, địa
chất học, giải phẫu học, lý luận triết học siêu hình, thẩm mĩ học, chính trị, thơ ca
và văn biện luận. Có nhận định cho rằng: Aristoteles là ”Bộ óc bách khoa toàn
thư thời cổ Hy Lạp”, một nhà tư tưởng thông hiểu tất cả sự vật sự việc trong thế
giới này lúc bấy giờ. Liệu nhận định trên hay câu nói ”Những gì mà người Hy
Lạp biết, Aristoteles đều biết” chỉ là những mỹ từ dành cho ông? Bởi trước và
sau thời ông cũng có rất nhiều các nhà tư tưởng Hy Lạp vĩ đại như Socrates,
Platon...Chúng ta cùng tìm hiểu.
SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 2
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
1. TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ:
1.1 Giới thiệu:
Triết học Hy Lạp cổ đại là nền triết học được tạo nên từ thế kỷ VI trước Công
Nguyên đến thế kỷ VI sau Công Nguyên, tượng trưng cho thành tựu rực rỡ của
văn minh phương Tây, và là cái nôi của văn hoá châu Âu.
Trong đó phải kể đến sản phẩm vĩ đại của Triết học Hy Lạp cổ đại nói riêng và
Triết học thời kỳ này nói chung chính là Phép biện chứng duy vật chất phác. Tuy
còn mang tính trực quan, cảm tính, phi khoa học do đạt được từ việc quan sát
trực tiếp, trình độ khoa học và tư duy chưa tiến bộ nhưng các nhà triết học tự
nhiên Hy Lạp đã góp phần to lớn đặt nền tảng cho Phép tư duy biện chứng duy
tâm khách quan và duy vật sau này.
1.2 Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại: tiêu biểu gồm:
9 Socrate (sinh năm 469 – mất năm 399 trước Công
Nguyên) là người đầu tiên đặt vấn đề con người với tư cách
là một sinh thể có đạo đức vào trọng tâm của triết học. Tự
giới thiệu như một người chẳng biết gì cả, kích thích suy
nghĩ bằng cách liên tục đặt ra những cân hỏi, ông đã nghiên
cứu bản chất nhân đạo của con người, thế nào là thiện, ác,
chính nghĩa, tình yêu, lương tâm, danh dự, … tức là những
điều tạo thành bản chất tâm hồn của con người. Ông hướng triết học đến với sự
tự nhận thức, nhận thức chính mình, một con người, một nhân cách có đạo đức
và mang ý nghĩa xã hội. Con người đức hạnh đạt tới sự tuyệt vời khi điều mình
muốn biết phải là điều thiện thực sự. Thế giới đầy những bấp bênh nhưng bao
nhiêu bất hạnh của bạn cũng sẽ không đáng kể miễn là linh hồn bạn giữ được sự
thanh cao. Ông đã sống và chết xác tín như vậy.
SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 3
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
9 Platon (sinh năm 427 – mất năm 347 trước Công
Nguyên) là người sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm, một
trào lưu mạnh và có nội dung phong phú nhất trong
lịch sử tư duy nhân loại. Triết học Platon là hệ thống
các quan điểm hoàn chỉnh về tất cả các bộ phận cơ bản
của triết học: bản thể luận, nhận thức luận, triết học
chính trị, đạo đức, mỹ học.
Cái căn bản trong triết học Platon là học thuyết về ý niệm. Nhận thức thông
thường cho chúng ta hình ảnh về thế giới hiện tượng, nó không mang tính chân
thực, chỉ là cái bóng mờ của bản chất sự vật. Hiện thực đích thực không phải là
cái mà nó hiện ra, mà là cái làm cho sự vật là cái nó có, được tinh thần nắm bắt
và thể hiện ra trong ngôn ngữ. Thế giới bản chất thuần tuý – đó là thế giới ý
niệm, nó nằm ngoài không gian, thời gian và không thay đổi. Có thể nhận thức
thế giới ý niệm bằng trí tuệ nhờ phép biện chứng hoặc thông qua hồi tưởng.
9 Aristoteles (sinh năm 385 – mất năm 322 trước Công Nguyên) là học trò
của Platon, nhưng ông không tán đồng quan điểm của thầy mình. Ý niệm phản
ánh cái phổ biến của sự vật, song cái phổ biến luôn được biểu hiện từ cái đơn
nhất và như vậy ý niệm nằm trong sự vật chứ không phải bên ngoài chúng.
Aristoteles đã đưa ra những kết luận quan trọng:
• Thế giới chỉ có một, đó là thế giới vật chất – tinh
thần, tồn tại hiện thực.
• Các sự vật và quá trình của thế giới hiện thực có
thể được nhận biết từ bản thân nó, tức là nghiên cứu thực
tế.
• Khoa học là nhận thức về thế giới hiện thực, khoa học cần phải có những
công cụ, tức các khái niệm. Tư duy cũng có những quy luật của nó. Các hình
thức và quy luật của tư duy là đối tượng nghiên cứu của logic học và chính ông
đặt nền móng cho khoa học này.
SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 4
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Bên cạnh đó còn có Thales, Pythagoras, Democritus, Epicurus, Hypatia thành
Alexandria…Các nhà triết học Hy Lạp đầu tiên có khuynh hướng chung là tư duy
về nguồn gốc và bản chất của thế giới. Ví dụ như đối với Thales đó là bản chất
của vạn vật là nước, Pythagor tìm cái chìa khoá phổ quát của hiện thực trong các
con số. Đặc biệt là Democritus, cùng với Leucippus tạo ra thuyết nguyên tử thô
sơ. Ông cho rằng mọi vật chất đều được tạo thành từ những nguyên tử, là những
phần tử nhỏ nhất, không thể phân chia được nữa và số lượng của chúng là vô
hạn. Héraclite đưa ra quan niệm mọi sự vật của thế giới luôn thay đổi, sự kết hợp
của các yếu tố vật chất là vô hạn, vì vậy cái bất biến trong thế giới chỉ có thể
được thừa nhận chính là sự biến đổi, chuyển hoá vĩnh hằng đó.
Nổi bật trong các nhà triết học thời Hy Lạp cổ là Aristoteles. Cùng với Platon,
Aristoteles được coi là một trong các nhà triết học Hy Lạp quan trọng nhất của
triết học Hy Lạp cổ đại cũng như triết học thế giới ngày xưa cũng như nay.
Aristoteles được xem là “Bộ óc bách khoa toàn thư của nhân loại”, có ảnh hưởng
trong nhiều thế kỷ về sau. Tuy là học trò của Platon nhưng Aristoteles có lập
luận, tư duy riêng, và cơ bản đối lập với người thày của mình. Ông là người thiết
lập môn lý luận học và cũng là người đầu tiên thiết lập một phương cách tiếp cận
với triết học bằng việc quan sát và trải nghiệm trước khi đi tới tư duy trừu tượng.
Bên cạnh đó, ông còn được xem là nhà giáo dục và nhà khoa học đã tạo nên ảnh
hưởng hết sức lớn lao trong nền Văn Minh Tây Phương. Tuy cũng có một số ý
kiến cho rằng, Aristoteles là “kẻ đạo văn lớn nhất của mọi thời đại” với lý luận
rằng sau khi Alexandrea đại đế chinh phục được Ai Cập, ông đã cho thày của
mình là Aristoteles tiếp cận với thư viện Ai Cập và những ý tưởng của ông do
xuất phát từ đây, nhưng không thể phủ nhận được những đóng góp của ông đối
với sự phát triển của khoa học và đặc biệt là triết học nhân loại.
2. CUỘC ĐỜI CỦA ARISTOTELES:
Aristoteles ra đời tại Stagira thuộc miền Thrace năm 384 trước Công nguyên.
Thrace cổ xưa (tức là nơi mà các dân tộc trên lãnh thổ Thracians sống) ngày nay
SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 5
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
bao gồm Bulgaria, châu Âu - Thổ Nhĩ Kỳ, phía đông-bắc Hy Lạp và các phần
của phía đông Serbia và phía đông nước Cộng hoà Macedonia. Cha Aristoteles,
ông Nichomachus, là một thầy thuốc danh tiếng tại triều đình Vua Amyntas II,
cha của Vua Philip, nước Macedonia. Trong 17 năm đầu, Aristoteles đã sống với
cha mẹ và được cha dạy cho về Y Khoa. Năm 18 tuổi, Aristoteles tới thành
Athens và theo học tại Trường Academos của Platon – học trò của Socrates, được
xem là một trong các nhà tư tưởng vĩ đại. Vào thời gian này, Platon 61 tuổi và đã
liên quan tới nền chính trị của Syracuse. Vì vậy Hàn Lâm Viện Academos đặc
biệt chú trọng về Luật Pháp, Chính Trị, thêm vào là Toán Học và Thiên Văn.
Aristoteles được coi là một trong số học viên chăm chỉ nhất và xuất sắc hơn các
bạn về trí thông minh và lòng nhiệt thành. Muốn giảm bớt thời giờ ngủ và tăng
thêm số giờ làm việc, Aristoteles đã nghĩ ra phương pháp sau: khi đọc sách hay
lúc làm việc về khuya, ông cầm nơi tay trái một quả cầu bằng đồng ở phía trên
một chiếc chậu. Nếu vì ngủ gật mà quả cầu rơi xuống thì tiếng động sẽ đánh thức
ông dậy. Aristoteles bị đau dạ dày và để làm giảm bớt nỗi đau đớn, ông thường
đeo ở trước ngực một cái bị đựng dầu đun nóng.
Theo như truyền thống, những học viên giỏi sẽ được trợ giảng cho thầy.
Aristoteles phụ trách giảng dạy môn Tu Từ Pháp (Rhetoric). Ông cũng soạn ra
vài tập Đối Thoại theo khuôn mẫu của Thầy Platon. Các tác phẩm này đều trở
nên rất nổi tiếng vì cách viết rõ ràng, dễ hiểu. Ông học với Platon vào khoảng từ
8 đến 20 năm, con số 20 năm có lẽ đúng hơn nếu xét mức độ ảnh hưởng của
Platon trong các tác phẩm của Aristoteles. Có người
cho rằng thời kỳ sống cùng Platon là một thời gian đẹp
nhất trong cuộc đời Aristoteles, một môn đệ thông
minh xuất chúng được ở gần một giáo sư toàn năng.
Platon công nhận rằng Aristoteles là một môn đệ thông
minh xuất chúng, hiếu học vì Aristoteles là một trong
những người đầu tiên trong lịch sử nhân loại biết sưu
tầm những tài liệu viết tay thời bấy giờ để lập thành một thư viện. Nhà của
SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 6
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Aristoteles được Platon gọi là nhà đọc sách, nhiều người cho đó là một lời khen,
nhưng cũng có người cho đó là một lời chê có ý ám chỉ đến tinh thần quá chú
trọng vào lý thuyết, sách vở của Aristoteles. Người ta còn kể rằng Platon đã phải
gọi Aristoteles là “Trí Tuệ của Nhà Trường” (l'entendement de l'Ecole). Danh
hiệu trên là thành tựu đầu tiên của Aristoteles khi có được sự công nhận của một
người thông tuệ như Platon.
Tuy có thể mối quan hệ giữa hai thầy trò không phải luôn luôn tốt đẹp, do
khoảng cách tuổi tác 43 tuổi, sự thông cảm không phải dễ dàng có. Đặc biệt, vào
cuối đời Platon, Aristoteles tỏ thái độ quan điểm đối lập về tư tưởng với thầy
mình. Có nhiều tài liệu cho rằng điều này làm Platon rất bất bình và coi
Aristoteles như một đứa con vô ơn. Còn đối với Aristoteles, có lẽ tuy bất đồng ý
kiến song ông lúc nào cũng kính trọng Thầy và gìn giữ lòng biết ơn, cụ thể khi
Platon qua đời vào năm 347, Aristoteles viết một bài điếu văn trong đó ca tụng
Thầy.
Vào năm 347 khi Platon qua đời, Speusippus trở thành người đứng đầu trường
Academos. Aristoteles đã cùng với Xenocrates và một vài môn đệ của Platon, rời
thành Athens tới Assos, sống với Hermias là một học trò cũ của Platon và cũng là
bạo chúa của hai tỉnh Atarneus và Assos trong miền Tiểu Á. Aristoteles có cảm
tình rất nhiều với Hermias và đã kết hôn cùng Pithias, em gái của Hermias. Vì
không cảm thấy an toàn tại Atarneus, Aristoteles đã theo lời khuyên của
Theophrastus, một môn đệ, ông dọn tới Mitylene thuộc miền Lebos vào năm 344.
Chính tại nơi này, Aristoteles đã nghiên cứu trong hai năm môn Sinh Học, đặc
biệt là ngành Hải Sinh Học.
Năm 342, Aristoteles được mời tới
Macedonia để dạy dỗ Thái Tử Alexander khi
đó mới 13 tuổi. Lời mời của Vua Philip II có
thể là do lúc tuổi trẻ, Aristoteles đã từng sống
tại triều đình này, có thể là do danh tiếng của
SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 7
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
ông nhờ các tập Đối Thoại, nhưng cũng chính vì Aristoteles đã từng liên lạc chặt
chẽ với Hermias là người đã tỏ ra thiên về Macedonia và chống lại Ba Tư.
Aristoteles đã ở lại Macedonia trong 7 năm. Theo như thông lệ, nhà Đại Hiền
Triết đã dạy cho Thái Tử về Chính Trị và Tu Từ Pháp, và Aristoteles cũng soạn
một tác phẩm của Homer để giảng cho Alexander. Aristoteles đã cố gắng làm
phát triển nơi Thái Tử các đức tính về điều độ và lý trí mà đối với ông, rất cần
thiết cho một vương quốc. Có lẽ chính vào dịp này, Aristoteles đã soạn ra cuốn
“Khảo Sát về Vương Quyền” (Traité de la Royauté) để giáo huấn Thái Tử nhưng
tác phẩm này đã bị thất lạc hoàn toàn.
Năm 340 khi vua Philip đi chinh chiến nơi xa, Thái Tử Alexander nắm giữ quyền
hành. Vào thời gian này, ông cũng giành thời gian cho riêng mình để học hỏi
thêm. Aristoteles cũng khuyên Alexander cho kiến thiết lại Stagira, nơi đã bị tàn
phá vài năm trước thành một thành phố hiến pháp.
Alexander rất quyến luyến ông Thầy và khi đã thay cha lên ngôi vua, vẫn lưu giữ
Aristoteles bên cạnh. Thái Tử luôn luôn tỏ lòng biết ơn đối với Thầy cũ bằng
cách biệt đãi nhà Đại Hiền Triết trong mọi công việc. Tuy vậy, dù rất mến yêu
Thầy nhưng trái lại, ít khi nghe theo lời khuyên bảo của Thầy vì “một sự di
truyền kỳ lạ hình như đã gieo vào tâm hồn Thái Tử tính tự kiêu vô hạn, với một ý
chí muốn ngồi ngang hàng cùng các thần linh”. Những cố gắng của Aristoteles
để làm dịu sự bồng bột của Alexandre hình như không đem lại nhiều kết quả.
Theo một vài sử gia Alexandre coi Aristoteles như cha ruột của mình và về phần
Alexandre cũng đã từng tuyên bố muốn học hỏi và coi trọng sự hiểu biết hơn là
chinh phục thế giới. Nhưng đó chỉ là những lời lẽ xã giao vì không đúng với sự
thật. Alexandre luôn luôn là một chiến sĩ thích
chinh phục, sau khi thọ giáo 2 năm với Aristoteles,
Alexandre nối ngôi cha và bắt đầu chinh phục thế
giới. Sự thành công của Alexandre có lẽ một phần
nào do ảnh hưởng của Aristoteles và người ta
thường so sánh thiên tài của Aristoteles trong lãnh vực triết lý với thiên tài của
SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 8
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Alexandre trong lãnh vực chính trị. Cả hai vĩ nhân này đều có công với nhân loại:
một bên thống nhất thế giới, một bên thống nhất triết lý.
Vào năm 335 khi Đại Đế Alexander đi chinh phục
châu Á thì Aristoteles tự thấy rằng nhiệm vụ của
mình đã chấm dứt. Ông đề nghị để người cháu tên
là Callisthenes thay mình làm cố vấn cho Đại Đế.
Sau khi từ biệt Alexander, Aristoteles trở lại thành
Athens và lập ra trường Lyceum, gần đền Apollon
Lycien, vì vậy ngày nay được gọi là “Lycée”. Trường Lyceum là nơi tôn thờ
Thần Muse, vị nữ thần chủ về Văn Chương, Nghệ Thuật và Khoa Học. Nhà
trường có rất nhiều học cụ, kể cả bản đồ, lại có một thư viện rất đầy đủ. Tại ngôi
trường này, Aristoteles trình bày các ý tưởng và giảng giải cho học viên trong các
cuộc dạo chơi ngoài vườn, vì vậy ngôi trường của Aristoteles còn được gọi là
“Trường Dạo Chơi”. Bên cạnh đó, Lyceum của Aristoteles chuyên nghiên cứu về
sinh lý học và động vật học.
Năm 323 khi Đại Đế Alexander qua đời, cuộc sống của Aristoteles cũng bị ảnh
hưởng. Mặc dù Aristoteles chỉ còn rất ít liên lạc với Alexander, nhất là khi người
cháu của ông bị tử hình, nhưng nhà Đại Hiền Triết thường đi lại với Antipater và
được viên tổng trấn này che chở. Đảng Quốc Gia thành Athens do Demosthenes
lãnh đạo đã nổi dậy chống lại phe Macedonia sau khi Đại Đế Alexander không
còn nữa. Aristoteles nhận thấy đời sống và tài sản của mình bị đe dọa. Người ta
đã tố cáo ông phạm tội bất kính vì 20 năm trước, ông đã sáng tác một bài thơ
tưởng niệm Hermias trong khi danh dự này phải giành cho Thượng Đế.
Aristoteles nhớ lại số phận của Socrates rồi không đợi tòa án xét xử, vì chắc chắn
ông sẽ bị kết án, Aristoteles rời bỏ thành Athens, trốn về quê mẹ là miền Chalcis.
Ông tuyên bố “Tôi sẽ không để người Athens vi phạm Triết Học lần thứ hai” (I
will not let the Athenians offend twice against Philosophy).
SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 9
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Sống tại Chalcis được vài tháng, Aristoteles qua đời vào năm 322 có lẽ do bệnh
đau dạ dày, một căn bệnh đã hành hạ ông trong nhiều năm trường, cũng có giả
thuyết là ông chết do tự tử. Ông để lại hai người con, con trai cùng tên với ông
nội là Nichomachus và người con gái mang tên mẹ Pithias. Theo như lời yêu cầu,
nắm xương tàn của nhà Đại Hiền Triết được chôn cất tại Stagira cùng với hài cốt
của Pithias, vợ ông.
3. ARISTOTELES – “BỘ ÓC BÁCH KHOA TOÀN THƯ” THỜI CỔ
HY LẠP
Những năm tháng học tại Hàn Lâm Viện cùng giáo sư tài hoa Platon, những nỗ
lực học tập, nghiên cứu không mệt mỏi cùng tố chất thông minh, tư duy sắc bén,
Aristoteles được xem là cha đỡ đầu của một số các ngành khoa học tự nhiên như
Vật lý học, Thiên văn học, sinh vật học…, đặc biệt trở thành nhà triết học có tầm
ảnh hưởng mạnh mẽ đến các triết gia sau này tuy những phương tiện nghiên cứu
của Aristoteles vô cùng thô sơ so với những phương tiện nghiên cứu hiện đại
ngày nay. Ông phải đo lường thời gian mà không có đồng hồ, đo lường nhiệt độ
mà không có hàn thử biểu, xem thiên văn mà không có kính viễn vọng, đoán thời
tiết mà không có phong vũ biểu. Những phương tiện duy nhất mà Aristoteles đã
sử dụng là một cái thước và một cái la bàn. Sức hút của Trái Đất, hiện tượng phát
điện, áp lực không khí, nguyên lý ánh sáng, nhiệt lượng và hầu hết những lý
thuyết tân tiến của khoa học hiện đại đều hoàn toàn chưa được phát minh. Cuộc
đời của ông, đặc biệt trong thời gian ở trường Lycyum, Aristoteles tập trung đọc
sách, nghiên cứu, giảng dạy và viết sách. Hệ thống các tác phẩm của Aristoteles
hầu hết là những ghi chếp để nói chuyện hoặc giảng bài. Nó bao quát rất nhiều
ngành kiến thức khác nhau như: sinh học, tâm lý, chiêm tinh học, địa lý học, địa
chất học, giải phẫu học, lý luận triết học siêu hình, thẩm mĩ học, chính trị, thơ ca
và văn biện luận. Số lượng tác phẩm của Aristoteles lên đến hàng trăm cuốn, có
người bảo 400 cuốn, có người bảo 1.000 cuốn. Những cuốn còn lại đến nay chỉ là
một số nhỏ khoảng 40 cuốn nhưng cũng có thể lập thành một tủ sách.
SVTH: Đinh Vũ Hồng Linh 10
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Các tác phẩm của Aristoteles được chia làm ba loại:
(1) các bài viết phổ thông (popular writings),
(2) các sách ghi chép (memoranda); và
(3) Các sách luận đề (treatises).
Các bài viết phổ thông đa số gồm các tập đối thoại theo mẫu của Plato và được
viết ra khi Aristoteles còn cư ngụ tại trường Academos. Với văn phong t