Đạo giáo là tôn giáo hình thành qua một quá trình dài và thâu nhập
nhiều trào lưu thượng cổ khác nhau. Nhưng nhìn chung, qua rất nhiều tư liệu
của các nhà nghiên cứu thì Đạo giáo được hình thành trên cơ sử lí luận của
Đạo gia - là học thuyết do Lão Tử khởi xướng và được Trang Tử hoàn thiện
vào khoảng thế kỉ II sau CN.
Lịch sử ra đời của Đạo giáo được ghi lại trong sử sách Trung Quốc
khá phức tạp và nhiều khi mâu thuẫn nhau về nhân vật, quan hệ truyền thừa
và thời điểm. Nói chung, Đạo giáo được hình thành trong phong trào nông
dân khởi nghĩa vào giữa thời Đông Hán. Lúc đầu, Đạo giáo có hai tổ chức
chính là Ngũ Đấu Mễ Đạo của Trương Lăng vào năm 141 và năm 184 xuất
hiện Thái Bình Đạo của Trương Giác. Sau hai tổ chức này bị phân hóa, một
bộ phận vẫn lưu truyền trong dân gian, còn bộ phận khác thì thâm nhập lên
tầng lớp trên và trở thành Đạo giáo chính thống.
Đạo giáo có hai phái: Đạo giáo phù thủy dùng các pháp thuật trừ tà trị
bệnh, chủ yếu giúp cho dân thường khỏe mạnh; Đạo giáo thần tiên dạy tu
luyện, luyện đan, dành cho các quý tộc cầu trường sinh bất tử. Kinh điển của
Đạo giáo gọi là Đạo Tạng kinh, ngoài sách về giáo lý, nghi lễ, Đạo Tạng còn
gồm cả các sách thuốc, dưỡng sinh bói toán, tướng số, thơ văn, bút kí.
7 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2524 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích vai trò của đạo giáo trong gia đình, dòng họ, làng xã Việt Nam cổ truyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
Phân tích vai trò của đạo giáo trong gia
đình, dòng họ, làng xã Việt Nam cổ truyền
2
1. Khái quát sơ lược về sự ra đời của Đạo giáo ở Trung Quốc
Đạo giáo là tôn giáo hình thành qua một quá trình dài và thâu nhập
nhiều trào lưu thượng cổ khác nhau. Nhưng nhìn chung, qua rất nhiều tư liệu
của các nhà nghiên cứu thì Đạo giáo được hình thành trên cơ sử lí luận của
Đạo gia - là học thuyết do Lão Tử khởi xướng và được Trang Tử hoàn thiện
vào khoảng thế kỉ II sau CN.
Lịch sử ra đời của Đạo giáo được ghi lại trong sử sách Trung Quốc
khá phức tạp và nhiều khi mâu thuẫn nhau về nhân vật, quan hệ truyền thừa
và thời điểm. Nói chung, Đạo giáo được hình thành trong phong trào nông
dân khởi nghĩa vào giữa thời Đông Hán. Lúc đầu, Đạo giáo có hai tổ chức
chính là Ngũ Đấu Mễ Đạo của Trương Lăng vào năm 141 và năm 184 xuất
hiện Thái Bình Đạo của Trương Giác. Sau hai tổ chức này bị phân hóa, một
bộ phận vẫn lưu truyền trong dân gian, còn bộ phận khác thì thâm nhập lên
tầng lớp trên và trở thành Đạo giáo chính thống.
Đạo giáo có hai phái: Đạo giáo phù thủy dùng các pháp thuật trừ tà trị
bệnh, chủ yếu giúp cho dân thường khỏe mạnh; Đạo giáo thần tiên dạy tu
luyện, luyện đan, dành cho các quý tộc cầu trường sinh bất tử. Kinh điển của
Đạo giáo gọi là Đạo Tạng kinh, ngoài sách về giáo lý, nghi lễ, Đạo Tạng còn
gồm cả các sách thuốc, dưỡng sinh bói toán, tướng số, thơ văn, bút kí...
Đạo giáo thờ “Đạo” và tôn Lão Tử làm giáo chủ, gọi là “Thái Thượng
Lão Quân”, coi ông là “Đạo” giáng xuống cõi trần.
Đạo được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, Lão Tử coi Đạo là phạm
trù triết học cao nhất, là căn nguyên chung của thế giới vạn vật, có trước trời
đất, là cơ sở vật chất đầu tiên của thế giới. Hay có thể hiểu Đạo là con đường
đi, là cái để chỉ quy luật vận động khách quan, sự biến hóa của vạn vật, là
bản thể của vũ trụ… Khái niệm về Đạo không chỉ dừng lại ở đây, nó còn
được với những nghĩa khác nhưng cũng không nhiều lắm. Tóm lại, thuật
ngữ Đạo nói trên không có nghĩa tôn giáo hay tín ngưỡng, nó chỉ có nghĩa
triết học, chính trị học và xã hội học.
Tư tưởng của Lão Tử có ảnh hưởng rất nhiều tới đời sống xã hội của
người Trung Quốc, tới tư tưởng học thuật, chính trị, phong tục tập quán …
Không chỉ tồn tại ở Trung Hoa mà còn lan rộng trên tất cả các nước xung
quanh, trong đó có Việt Nam
2. Quá trình du nhập của Đạo giáo vào Việt Nam
2.1. Sự du nhập và hình thành
3
Đạo giáo từ một học thuyết trở thành một tôn giáo, sau khi ra đời ở
Trung Quốc nó đã được truyền vào nước ta theo chân các nhà cai trị, trí thức
cùng thuật số, phù thủy Trung Quốc. Đạo giáo đi vào Việt Nam tìm thấy rất
nhiều nét tương đồng với tín ngưỡng bản địa của nhân dân ta, đó là các tục
sùng bái thần linh, ma thuật phù phép…nên đã nhanh chóng phát triển, đặc
biệt là Đạo giáo phù thủy, bởi vì trước đó người Việt đã từng bái ma thuật,
phù phép nên nó ăn sâu vào người Việt một cách dễ dàng, họ tin rằng những
lá bùa, những câu thần chú có thể chữa được bệnh tật và trị được tà ma. Hơn
nữa, vốn mang trong mình tư tưởng phản kháng giai cấp thống trị, nên Đạo
giáo đã được người Việt Nam sử dụng làm vũ khí chống lại những kẻ đô hộ.
Tương truyền rằng sau khi Linh Đế băng hà, xã hội Trung Hoa rối
loạn, chỉ có đất Giao Châu được yên ổn, người phương Bắc sang lánh nạn tại
đó rất đông, phần nhiều là các đạo sĩ theo thuật thần tiên, nghĩa là luyện
phép thần tiên theo cách nhịn ăn. Nhiều quan lại Trung Hoa sang cai trị nước
ta cũng dung phương thuật ấy, điển hình là trường hợp Cao Biền đời Đường
từng đi lung khắp nước ta để tìm cách yểm huyệt, hi vọng cắt đứt các long
mạch triệt nguồn nhân tài và đồng thời cũng khám phá các mỏ thần sa để
luyện thuốc trường sinh. Thế nên, nếu Nho giáo phải đến thời Lý mới được
thừa nhận thì Đạo giáo đã hòa trộn với tín ngưỡng ma thuật đến mức không
còn ranh giới.
2.2. Các phái Đạo giáo ở Việt Nam
Đạo giáo truyền sang Việt Nam chia thành hai phái là Đạo giáo phù
thủy và đạo giáo thần tiên.
2.2.1. Đạo giáo phù thủy
Ngay từ khi Nho giáo chưa có cơ sở xã hội ở nước ta, thì Đạo Phù
thủy nhờ sự tương đồng với các ma thuật phù phép địa phương, nên đã bắt
đầu phát triển rộng rãi từ đời Tiền Lê. Thời xa xưa, người Việt ta thường
dùng bùa chú, họ tin rằng có thể trị tà ma, chữa bệnh, sai âm binh, tàng
hình... Tương truyền Hùng vương là người nhờ giỏi pháp thuật nên có uy tín
thu phục được 15 bộ lạc lập nên nước Văn Lang. Về sau, đời Hồng Bàng có
Chử Đồng Tử cũng giỏi về pháp thuật theo Đạo giáo thần tiên. Một số nhà
sư ngày xưa cũng phải học phù phép, chữa bệnh, đuổi tà, gây uy tín trong
dân gian để có thể truyền bá Phật giáo cho dễ dàng.
Bên cạnh Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đạo Giáo Phù Thủy Việt Nam
còn thờ nhiều vị thần khác của dân Việt, như Đức Thánh Trần Hưng Đạo, vị
anh hùng dân tộc, hai lần thắng quân Nguyên được dân chúng thờ như vị
thần có tài diệt trừ yêu quái, Bà Chúa Liễu Hạnh, tương truyền là một nàng
tiên có nhiều phép thần thông, phù hộ dân, trừng phạt bọn hủ nho quen thói
hiếp chọc nữ giới, và thắng cả quân lính nhà vua sai đến tiểu trừ phá hoại
đền thờ bà. Ngoài ra, còn có tục lên đồng, thờ các Mẫu Tam Phủ là Mẫu
4
Thượng Thiên: Bà Trời; Mẫu Thượng Ngàn: Bà Đất; Mẫu Thoải, âm đọc
chệch đi từ chữ Thủy: Bà Nước để hòa nhập với tín ngưỡng của dân chúng.
Thờ Đức Thánh Trần và Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ thường gắn liền với
Đồng cốt hay còn gọi là đòng bóng. Người thờ Đức Thánh Trần gọi là
Thanh đồng, các Bà đồng thì thờ Tam Phủ, Tứ Phủ, gọi là thờ Chư vị. Lên
đồng còn gọi là hầu bóng, mỗi lần lên đồng nguời ngồi đồng được thần
thành nhập vào để phán bảo hoặc chữa trị… gọi là một giá đồng. Những phụ
nữ có số phận long đong lận đận được khuyên là có số thờ phải đến đội bát
hương ở đền hay phủ. Đạo giáo phù thủy với bùa chú, lên đồng phát triển
không ngừng, bản thân phù chú mang tính dân gian và đối kháng với triều
đình phong kiến cho nên bị coi là tà đạo. Nhưng bùa chú là phương tiện
chữa bệnh khi mà người ta chưa nhận thức được đầy đủ những nguyên nhân
của bệnh tật như y học hiện đại, khi còn nhiều nguyên nhân thần bí thì nhiều
người đến với bùa chú phù phép là điều đương nhiên.
2.2.2. Đạo giáo thần tiên
Đạo giáo Thần tiên tại Việt Nam chia thành hai phái: phái nội tu và
phái ngoại dưỡng.
- Phái Nội Tu:
Vào thế kỷ 17, đời vua Lê Thần Tông (1619-1643), xuất hiện một
giáo phái Việt Nam có quy mô lớn gọi là Nội Đạo. Người sáng lập là Trần
Toàn, quê Thanh Hóa, nguyên là một quan to triều Lê, không theo nhà Mạc,
từ quan về tu theo Đạo Giáo Thần Tiên, giúp dân trừ tà ma quỉ quái trong hai
vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh. Tương truyền Lê Thần Tông bị bệnh mọc lông
cọp, Trần Toàn dùng bùa và thần chú chữa khỏi. Phái giáo Nội Đạo phát
triển vào Nghệ An phía nam, và ra Bắc, có đến mười vạn tín đồ, đến thế kỷ
thứ hai mươi còn tồn tại ở Thanh Hoá, Nghệ An, Hải Dương, Hưng Yên, Hà
Nội.
Người Việt Nam thờ Chữ ĐồngTử, người đã thành tiên bay lên trời
làm ông tổ của Đạo giáo thần tiên ở Việt Nam, gọi là Chữ Đạo Tử và nhiều
tiên thánh khác như Thánh Tản Viên, người được ban gậy thần và sách ước.
- Phái Ngoại dưỡng:
Những người theo phái này cho rằng con người có thể thành tiên sống
lâu bất tử nhờ uống thuốc trường sinh là kim đan.
Sau khi vừa xuất tiện ở Nam Trung Hoa thì phái này du nhập vào
nước ta ngay, vì dược liệu để chế kim đan là thần sa có nhiều tại các đảo như
Cù lao Chàm ở Quảng Nam mà ngày xưa các lái buôn mua từ Giao Chỉ đưa
về Trung Hoa. Mã Viện ngoài việc dẹp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng,
còn có mục đích riêng là đi tìm các mỏ thần sa. Đời Đông Tấn (316-334) Cát
Hồng đang làm quan tại triều Trung Hoa, xin đi làm tri huyện ở Câu Lâu,
5
Hải Dương để có dịp đi tìm thần sa ở nước ta mà luyện thuốc trường sinh
cho mình.
Giới sĩ phu ta ngày xưa thường tổ chức “cầu tiên” hay phụ tiên để cầu
hỏi cơ trời, biết trước chuyện thời thế, đại sự cát hung… ở tư gia hay ở các
đền như Ngọc Sơn, Hà Nội; Tản Viên, Sơn Tây, Đào xá Hưng Yên ở miền
Bắc. Ở miền Nam sau này, do các cuộc cầu tiên, mà Đạo Cao Đài ở miền
Nam phát sinh, thờ cả ba giáo chủ Thích ca, Lão tử, Khổng Tử.
Ngoài ra, gần với Đạo giáo thần tiên còn có khuynh hướng ưa thích
sống thanh tĩnh, nhàn hạ do ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang. Hầu hết các
nhà Nho Việt Nam đều mang tư tưởng này. Chẳng hạn sinh không gặp thời,
gặp chuyện bất bình trong chốn quan trường hay khi về già các cụ thường lui
về ẩn dật, tìm thú vui nơi thiên nhiên, sống thanh thản nơi làng quê, điển
hình như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Phan Huy
Ích, Nguyễn Trãi…
3. Đạo giáo hòa nhập với đời sống người Việt.
Thứ nhất, Đạo giáo đi vào và tìm thấy rất nhiều nét tương đồng với tín
ngưỡng bản địa của nhân dân ta: đó là các tục sùng bái thần linh, ma thuật
phù phép, nên đã nhanh chóng phát triển. Đặc biệt là Đạo giáo phù thủy, bởi
vì trước đó người Việt đã từng sùng bái ma thuật phù phép nên nó ăn sâu
vào trong tâm thức họ một cách dễ dàng. Họ tin rằng những lá bùa, những
câu thần chú có thể chữa được bệnh tật, trị được tà ma, đoán biết những sự
việc xảy ra trong nhà thông qua việc xem bói.
Và ngay từ thời tiền sử người Việt đã có quan điểm cho rằng ngoài
sức mạnh và ý chí của con người còn có sức mạnh của lực lượng siêu nhiên
họ tin là có thánh thần, do vậy khi Đạo giáo quảng bá ý thức thờ thần thánh
thì lập tức nhận được sự đồng cảm của xã hội người Việt và việc xây dựng
các đền miếu cũng được nhân dân tiến hành.
Thứ hai, vào thời Bắc thuộc nhân dân ta sống cảnh nước nhà tan, bị đô
hộ bởi chính quyền phương Bắc. Theo quy luật đã có xã hội là phải có một
cái gì đó để giữ gìn kỉ cương của xã hôi, những gì ngoại lai và áp đặt thì
nhân dân ta không thừa nhận. Trong bối cảnh đó thánh thần được coi là lực
lượng công minh và sáng suốt nhất giữ đức cho mọi nhà, giữ lẽ công bằng
cho toàn xã hội, người dân tin rằng ở hiền gặp lành, ở ác gặp họa, họ coi
thánh thần như một thứ pháp luật bất thành văn, là một đội ngũ quan tòa xét
xử công bằng và rành mạch. Nói cách khác nhân dân ta cần có cái gì đó để
sợ, đó là các thánh thần theo quan niệm của họ và có không ít thánh thần do
Đạo giáo tạo ra. Và như vậy, từ vị trí là một trong những thành tố ngoại lai,
Đạo giáo đã hội nhập một cách rất tự nhiên với đời sống văn hóa, tư tưởng
và tâm linh của người Việt.
6
Nói chung, thánh thần của Đạo giáo được thừa nhận và có vị trí rất tôn
nghiêm trong nhận thức và cả trong phương pháp tư duy đương thời. Nó đã
khôn khéo len lỏi vào đời sống tâm linh và mau chóng hòa nhập vào tình
cảm, nhận thức của tầng lớp xã hội, tạo ra cuộc đồng hành đầy tự nhiên và
rất gắn bó giữa Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian trong quá trình xây dựng và
củng cố niềm tin của nhân dân đối với các đấng thần linh.
4. Vai trò của đạo giáo trong đời sống người Việt
Đạo giáo có ảnh hưởng sâu đậm trong nhân dân ta, từ xưa cho đến
nay, từ bình dân cho đến vua chúa, từ người thất học cho đến trí thức. Mặc
dù thời nay tôn giáo mang tên Đạo giáo không còn tồn tại ở Việt Nam nữa
song những ảnh hưởng của nó vẫn còn tác động mạnh mẽ trong đời sống xã
hội và những vai trò mà nó mang lại là không thể phủ nhận.
Thứ nhất, tùy theo mỗi người, có người xem Đạo giáo là phương pháp
dưỡng sinh, vì các việt tập thở, phong trung, luyện đan có tác dụng kéo dài
tuổi thọ. Điều này trong Phật giáo cũng có đề cập nhưng với Đạo giáo có các
yếu tố thần linh khiến người ta tin tưởng hơn và quyết tâm tập luyện hơn.
Thứ hai, có người thì từ Đạo giáo tiếp thu các yếu tố tích cực của đạo
làm người để bồi dưỡng đạo đức của mình. “Thái Bình Đạo” của Trương
Giác nêu rằng dựa vào sức lực mình mà sống, phải cứu giúp người hoạn nạn,
chu cấp cho người trong hoàn cảnh khó khăn. Hoặc có vị thần giám sát hành
vi của mỗi người, để biết được việc thiện và ác của mỗi con người mà
thưởng phạt. Ví như từ ngoài cổng vào nhà có những năm vị thần: thần
cổng, thần sân, thần giếng, thần cửa và thần bếp. Điều này chứa đựng cả một
thế giới thần linh phong phú giúp người người tự sửa đức, giúp nhà nhà cẩn
thận hơn trong việc giữ gìn gia giáo, giúp nơi nơi gắn bó với nhau hơn thông
qua việc thờ chung một số thần, giúp đời cẩn thận hơn trong mọi giao tiếp.
Nếu có tin vào những lời khuyên thì hành vi của họ sẽ có nhiều điều thiện.
Thứ ba, Đạo giáo giáo dục ý thức cộng đồng, là niềm tự hào về anh
linh của các bậc tiền bối, là sự tiếp nhận và quảng bá giá trị đạo đức làm
người vốn đã được đúc kết từ thiên cổ. Góp phần cổ vũ tinh thần yêu nước
và nâng cao tình đoàn kết thông qua việc thờ những vị anh hùng có công đức
với dân, với nước được nhân dân tôn làm thần, làm thánh (Lạc Long Quân,
Âu Cơ, Chử Đồng Tử, Tiên Dung, Tản Viên, Phù Đổng Thiên Vương, và tất
cả những vị anh hùng được nhân dân đồng lòng tôn vinh).
Thứ tư, nhân dân ta biết khôn khéo sử dụng Đạo giáo như một thứ vũ
khí độc đáo nhằm nuôi dưỡng niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn và
nhằm chống lại âm mưu thâm độc của giai cấp thống trị. Họ tin tưởng rằng
các đấng thánh thần tối linh sẽ đứng về phía nhân dân, cổ vũ và trực tiếp góp
sức vào cuộc chiến đấu ngoan cường của nhân dân, nhằm giành lại độc lập
và tự chủ.
7
5. Kết luận
Nhìn chung, trong quá trình truyền bá và tiếp nhận cũng là quá trình
Đạo giáo không ngừng khẳng định được vị trí quan trọng trong tâm linh của
người Việt. Với hàng loạt các lễ hội, các thần linh, các nghi thức, các ma
thuật, lên đồng, bói toán… Đạo giáo đã góp phần rất đáng ghi nhận trong
việc gắn kết cộng đồng, tôn vinh tổ tiên và sáng tạo các giá trị văn hóa
chung của dân tộc.