Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần của từng con người ,của từng cộng đồng xã hội.Trong đó Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo với cái đích là cứu con người thoát khỏi nổi khổ.Nó xuất hiện cuối thế kỉ 6 trước công nguyên ở Ấn Độ.
Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo là đề cập đến việc lý giải căn nguyên của nổi khổ và tìm con đường giải thoát con người khỏi nổi khổ triền miên đó.
Phật giáo khởi thủy ở Ấn Độ truyền đi khắp các xứ lân cận.Trước hết sang các nước Trung Á rồi sang Tây Tạng,Trung Hoa, Nhật Bản và các nước miền Nam Châu Á. Việt Nam cũng thuộc trong phạm vi ảnh hưởng ấy.Mỗi khi Phật giáo vào nước nào tùy theo phong tục mỗi nước mà có sự khác nhau. Phật giáo ở mổi nước có một tinh thần và tính cách khác nhau như lịch sử nước ấy.
Phật giáo đến với người Việt Nam từ rất lâu đời, vào khoảng nửa cuối thế kỉ thứ I. Do bản chất từ bi hỉ xã, đạo Phật đã nhanh chóng tìm được chỗ đứng và bám rể vững chắc trên đất nước ta.
Từ khi vào Việt Nam, Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến dời sống tinh thần của người Việt Nam. Vì các triết lý Phật giáo xuất phát từ tâm tư và nguyện vọng của người lao động nên số người theo Phật tăng nhanh. Những ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo ăn sâu vào đời sống của đại đa số người dân Việt Nam không chỉ từ trong giai đoạn đầu của lịch sử dân tộc mà còn ngay cả cuộc sống ngày nay. Vì vậy việc tìm hiểu về Phật giáo và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam là hết sức cần thiết.
• Cấu trúc của tiểu luận gồm những phần chính sau:
Chương I:Nguồn gốc,quan điểm của triết học Phật giáo
Chương II:Ảnh hưởng của quan điểm Phật giáo đối với đời sống tinh thần người Việt Nam.
17 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3800 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tiểu luận:
Phật giáo và sự ảnh hưởng ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
MỞ ĐẦU
Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần của từng con người ,của từng cộng đồng xã hội.Trong đó Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo với cái đích là cứu con người thoát khỏi nổi khổ.Nó xuất hiện cuối thế kỉ 6 trước công nguyên ở Ấn Độ.
Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo là đề cập đến việc lý giải căn nguyên của nổi khổ và tìm con đường giải thoát con người khỏi nổi khổ triền miên đó.
Phật giáo khởi thủy ở Ấn Độ truyền đi khắp các xứ lân cận.Trước hết sang các nước Trung Á rồi sang Tây Tạng,Trung Hoa, Nhật Bản và các nước miền Nam Châu Á. Việt Nam cũng thuộc trong phạm vi ảnh hưởng ấy.Mỗi khi Phật giáo vào nước nào tùy theo phong tục mỗi nước mà có sự khác nhau. Phật giáo ở mổi nước có một tinh thần và tính cách khác nhau như lịch sử nước ấy.
Phật giáo đến với người Việt Nam từ rất lâu đời, vào khoảng nửa cuối thế kỉ thứ I. Do bản chất từ bi hỉ xã, đạo Phật đã nhanh chóng tìm được chỗ đứng và bám rể vững chắc trên đất nước ta.
Từ khi vào Việt Nam, Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến dời sống tinh thần của người Việt Nam. Vì các triết lý Phật giáo xuất phát từ tâm tư và nguyện vọng của người lao động nên số người theo Phật tăng nhanh. Những ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo ăn sâu vào đời sống của đại đa số người dân Việt Nam không chỉ từ trong giai đoạn đầu của lịch sử dân tộc mà còn ngay cả cuộc sống ngày nay. Vì vậy việc tìm hiểu về Phật giáo và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam là hết sức cần thiết.
Cấu trúc của tiểu luận gồm những phần chính sau:
Chương I:Nguồn gốc,quan điểm của triết học Phật giáo
Chương II:Ảnh hưởng của quan điểm Phật giáo đối với đời sống tinh thần người Việt Nam.
NỘI DUNG
Chương I:NGUỒN GỐC,QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO:
I.Nguồn gốc lịch sử của Phật giáo:
Là một đạo giáo hòa bình tràn đầy đức tính từ bi, trí tuệ dũng cảm, bình đẳng, vô ngã, vị tha…hiện nay Phật giáo lan khắp năm châu bốn biển. Không chỉ thâu hẹp trong vùng Châu Á như trước đây. Nguồn gốc Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ. Giáo chủ là Phật Thích Ca Mâu Ni.
1.Bối cảnh Ấn Độ thời Đức Phật:
Vào thời cổ đại, Ấn Độ là nước đa thần giáo, chế độ mẫu hệ. Đến thời người Aryan tràn vào xâm chiếm, xã hội Ấn Độ chia thành bốn giai cấp là Đạo sĩ (Bà La Môn), Vua Quan(Sát Đế Lợi), Công Nông Thương(Phệ Xá) và Nô lệ(Thủ đà la). Gia đình chuyển thành phụ hệ.
Về tư tưởng tôn giáo
Dù nhiều đạo giáo vẫn tồn tại nhưng giáo sĩ Bà la môn truyền bá tư tưởng nhất thần. Triết lý tôn giáo phủ nhận vai trò của con người đối với cuộc đời và cả thế giới khách quan. Kết quả là sinh ra hai xu hướng là trốn đời khổ hạnh hoặc xuôi theo dòng đời hưởng lạc thú vật chất. Từ hai mặt xã hội và tôn giáo, người dân Ấn Độ mất niềm tin ,mong ước có một vị cứu tinh ra đời để xóa bỏ giai cấp bất công và ổ định tư tưởng tôn giáo, đem lại an lạc hạnh phúc cho mọi người.
Trong bối cảnh đó, đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời.
2.Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
a. Thái tử Tất Đạt Đa:
Ngoài bất công xã hội, tôn giáo phức tạp, đất nước Ấn Độ chia thành nhiều nước nhỏ thường tranh chấp nhau chẳng khác thời chiến quốc bên Trung Quốc, thời 12 sứ quân ở Việt Nam.
Trong các nước đó, quốc gia giàu mạnh nhất là Ca Tỳ La Vệ(Kapilavastu), phía bắc Trung Ấn, nay là pipsava, phía nam nước Nepal. Nhà vua trị vì nước đó tên là Tịnh Phạn(Sudhodana). Vào năm 204 trước Công Nguyên, hoàng hậu MaDa(Maya) hạ sinh một hoàng tử khôi ngô tuấn tú tại vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni (Lumbini) dước gốc cây Ưu Bát La thường gọi là cây Vô Ưu (Asokaa) có hoa với màu sắc rực rỡ.
Thái tử có tên là Tât Đạt Đa lớn lên, Thái tử văn võ song toàn,có vợ là công chúa Da Du Đà La (Yasodara), con vua Thiện Giác. Cuộc sống Thái tử rất đầy đủ, không thiếu một thứ gì trên trần gian.
b.Thái Tử Tất Đạt Đa xuất gia, tu hành và thành đạo
Trước bối cảnh xã hội giai cấp, tư tưởng tôn giáo siêu hình, cuộc sống con người cậy mạnh hiếp yếu…Năm 29 tuổi, Thái Tử đã thoát ngục vàng, đến bên dóng A Nô Ma cắt tóc làm nhà đạo sĩ
Sau thời gian học đạo 6 năm, Thái Tử thấy con người hưởng lạc sẽ bê tha thối nát; còn tu khổ hạnh chỉ chuốc thêm khổ thân; chỉ có con đường trung đạo mới mong thành chính quả. Bởi thế, Thái Tử đã bỏ năm anh em ông Kiều Trần Như,dùng bát sữa của Tu Xá Đề(Sajata) xuống sông Ni Liên tắm rửa rồi lên thiền quán dưới gốc cây Tất Bát La xứ Ba La Nại.Qua 49 ngày chiến đấu với nội ngoại ma,Thái Tử đã chứng tam minh là Túc mạng minh,Thiên nhân minh,Lậu tân minh và thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni năm 36 tuổi
c.Đức Phật giáo hóa và Niết Bàn:
Thành Phật rồi,Đức Phật đến rừng nai xứ Ba La Nai giáo hó năm người bạn cùng tu khổ hạnh ngày trước cùng nhóm Kiều Trần Như với phái Tứ đế
Khắp vùng Ngũ Hà suốt 45 năm,đúc Phật thuyết pháp trên 300 hội,vào tận hang cùng ngõ hẻm một cách tận tụy và rộng rãi.Phật đã dừng chân bên vệ đường xâu kim cho một bà già mù lòa;săn sóc,dọn dẹp ô uế cho người bệnh.Vì từ bi,bình đẳng,đức Phật đã nhận cái tát của em bé cúng dường,nhận thức ăn dư thừa của một tiện nữ dâng cúng.Phật cồn cho người dâm nx vào giáo hội.Với hiếu đạo,Phật đã đích thân khuân quan tài của vua Tịnh Phạn.Phật đã giáo hóa không lúc nào ngừng nghỉ.Phật làm tất cả mọi việc dù là rất nhỏ…Tất cả việc làm của Phật chỉ có mục đích duy nhất là bày trí kiến Phật cho chúng sinh. Phật đến rừng SaLa vào Niết Bàn lúc nửa đêm dưới ánh trăng rằm tỏa rạng vào năm 80 tuổi
II. Những quan điểm triết học của Phật giáo:
Qua bao thăng trầm của lịch sử, mãi đến ngày nay, Phật giáo đã không những vẫn tồn tại mà còn được lan truyền khắp thế giới và được nhiều tầng lớp người tôn kính, lưu tâm tìm hiểu. Được như thế, ngoài nhân cách của Đức Phật còn nhờ giáo lí, giáo luật, lễ nghi của Phật giáo.
1.Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan:
Quan điểm về thế giới quan về Phật giáo được thể hiện tập trung ở nội dung của ba cặp phạm trù: vô ngã, vô thường, và Duyên.
- Vô ngã: cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của hai yếu tố: “Sắc” và “Danh”. Trong đó “ Sắc” là yếu tố vật chất, có thể cảm giác được. Còn “Danh” là yếu tố tinh thần, không có hình chất mà chỉ co tên gọi “Danh” và “Sắc” hợp lại với nhau tạo thành “Ngũ Uẩn” nào đó. Nhưng sự tồn tại của vật chất chỉ là tạm thời, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó, không có cái gọi là “Tôi”.
- Vô thường: tức là vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trinh bất tận: sinh- trụ- dị- diệt. Vậy thì có có, không không luân hồi bất tận, có đó rồi lại không, cái còn mà chẳng còn, cái mất mà chẳng mất.
Đức Phật dạy:” Cái gì có trong thế gian là biến đổi, hư hại, là vô thường. vì vậy, vô thường nghĩa là không thường, không ở mãi trong một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, từ hình thành đến biến đổi đến tan rã. Vô thường là phương pháp chỉ rõ mặt trái của đời, bài trừ sự mê lầm, ngăn chặn người chạy theo vật dục. Nó chưa phải là thuyết tuyệt đối. Vô thường là một định luật chi phối tất cả sự vật từ tâm đến hoàng cảnh. Hiểu lí vô thường, con người dễ giữ được bình tỉnh, thản nhiên trước cảnh đổi thay bất thường.
Duyên: tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ, từ những cái vô cùng nhỏ đến những cái vô cùng lớn đều không thoát khỏi sự chi phối của nhân duyên: cái nhân(hetu) nhờ có cái duyên(prattiya) mới sinh ra mà thành quả(phla). Qủa lại do cái duyên mà thành ra nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành ra quả mới… Cứ thế, nối tiếp nhau vô cùng, vô tận mà thế giới, vạn vật. muôn loài cứ sinh sinh hóa hóa mãi theo quy luật nhân quả. Nhân là cái mầm; quả là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả la hai trạng thái nối tiếp nhau, nương tựa vào nhau. Không có nhân không thể có quả, không có thì không thể có nhân. Nhân nào quả ấy.
Con người do nhân duyên kết hợp và được tạo thành bới hai thành phần: thể xác và tinh thần. Hai thành phần ấy là kết quả hợp tan của Ngũ Uẩn. Hai thành phần tạo nên Ngũ Uẩn, do nhân duyên hợp thành. Mỗi con người cụ thể có danh sắc(nâma-suna), Duyên hợp Ngũ Uẩn thì là ta, duyên tan Ngũ Uẩn thì không còn ta, là diệt.Nhưng không phải là mất đi mà trở lại với ngũ uẩn.Ngay các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn biến hóa theo quy luât nhân quả không ngừng.
Cho nên,con người cứ biến hóa,vụt mất,vụt còn,không có sự vật riêng biệt tồn tại mãi mãi,không có cái tôi thượng đỉnh.Cái tôi hôm qua không còn là cái tôi hôm nay nữa.Vì không nhận thực được cái gọi là biến ảo(Maya),vô thường,vô định của vạn vật mới là thường hằng và chân thực;không nhận thức được rằng: “cai tôi” có mà không,không mà có,nên người ta lầm tưởng ta tồn tại mãi mãi,cái gì cũng thường định, cái gì cũng là của ta,là ta,do ta nên con người cứ khát ái,tham dục,hành động chiếm đoạt nhằm thỏa mãn những ham muốn dục vọng đó,tạo những kết quả,gây nghiệp báo(Karma),mắc vào bể khổ triền miên không dứt(Sam-sara).
Đã mắc vào sự chi phối của quy luật nhân duyên là chụi nghiệp báo và kiếp luân hồi.Đó là cách lý giải căn nguyên của nổi khổ của con người Phật giáo.
2.Quan điểm của Phật Giáo về nhân sinh quan:
a.Quan điểm của Phật Giáo về nghiệp:
Nghiệp có nghĩa là hành động hay việc làm.Tư tưởng, lời nói hay việc làm thường có ý muốn làm động cơ khởi xướng.Phật giáo gọi ya muốn hay ý chí ấy là tác ý.
Nghiệp báo là một định luật nhân quả trong lĩnh vực luân lý hay như người Phương Tây gọi là “ảnh của hành động”
Có vài ý kiến cho rằng thuyết nghiệp báo là loại xoa dịu, ru ngủ những con người xấu số.Nhưng đức Phật không hề dạy thế,thuyết nghiệp báo trong đức Phật cũng không bao giờ chấp nhận một cuộc sống phán sử sau kiếp sống.Theo lý nghiệp báo,chúng ta không nhất thiết bị trói buộc trong một hoàn cảnh nào vì nghiệp báo không phải là số mệnh cũng không phải là tiền định do một ma lực huyền bí đã định đoạt cho ta một cách bất khả kháng.Chúng ta có đủ năng lực để chuyển phần nào cái nghiệp của chúng ta theo ý muốn.
b.Quan điểm của Phật Giáo về “Tứ diệu đế”:
Nội dung của triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện trong thuyết“Tứ diệu đế”mà Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại.Thông điệp“Tứ diệu đế”gồm hai mặt:Nhận thức và hành động.Đó là bốn chân lý huyền diệu,chắc chắn, hiển nhiên,bao gồm:
- Khổ đế(Dukkha):Là chân lý về bản chất của nỗi khổ.Theo đạo Phật,thực tại nhân sinh là khổ ải;ngoài nỗi khổ do sinh,lão,bệnh,tử gây nên cho con người còn có nỗi khổ vì không ưa mà hợp là khổ,ưa mà phải lìa là khổ,mong không được cũng khổ,được cũng khổ mà mất cũng khổ.Đời là bể khổ.
- Tập đế(Samarudays):Là chân lý về nguyên nhan của nỗi khổ.Con người trong thế giới hiện thực này khổ là vì đâu?Nguyên nhân trực tiếp là do con người có lòng tham,sân,siCon người muốn còn mãi nhưng thực tại cứ biến dịch và thay đổi,muốn trường tồ nhưng thực tại luôn biến hóa trong vòng sinh,lão,bệnh,tử;không có cái gì thực là ta,của ta.Do đó đã tạo nên cho con người những nỗi khổ triền miên cho con người trong cuộc đời.Để giải thích cho căn nguyên ấy,đức Phật đã nêu ra thuyết “Thập nhị nhân duyên”gồm: Vô minh (avidya),Hành (Samskara),Thức(Vijnâna),Danh sắc(nâmarupa)Lục căn(Sandagatana),Xúc(Sparacs),Thụ(vecsdana),Ái(Trisna),Thủ(Upadana),Hữu(bhava),Sinh(Jatri),Lão tử(jana-marana).
- Diệt đế(Nirodha):Là chân lý diệt khổ.Nổi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên nhân gây ra khổ bị loại từ.Lần theo thập nhị nhân duyên,tìm ra cội nguồn của nỗi khổ và ái dục,dứt bỏ từ ngọn nguồn cho đến gốc mọi nguồn gốc đau khổ đưa chúng sinh thoát khỏi nghiệp chướng,luân hồi,đạt đến cảnh trí Niết bàn(Nirvana).Đó là thế giới lý tưởng của sự giác ngộ và giải thoát.Trạng thái Niết bàn,Thường trụ,Chính quả không thể lý giải được mà là tự mình giác ngộ.Mục đích của Phật tử là thực hiện Niết bàn, khi đang tu dưỡng là thực hiện Niết bàn từng phần, khi giác ngộ rồi là thực hiện được Niết bàn toàn phần,trở thành Phật.
- Đạo đế(Marga):là chân lý chỉ ra con đường diệt khổ,nói về những con đường,cách thức để con người đạt đến trạng thái Niết bàn.Con đường diệt khổ,giải thoát và giác ngộ đòi hỏi phải rèn luyện đạo đức,rèn luyện tư tưởng và khai sáng trí tuệ.Ba môn học này được cụ thể hóa trong khái niệm“Bát chánh đạo”(tám con đường chân chính),đó là;
+ Chính kiến(samyak-dristi):hiểu biết đúng đắn,kiến giải chính xác.
+ Chính tư duy(samyak-samkalpa):suy nghĩ đúng đắn.
+ Chính nghiệp(samyak-karmata):hành động chân chính,thực hện ngũ giới(không sát sinh,không trộm cắp,không tà dâm,không uống rượu,không nói dối)
+ Chính ngữ(samyak-vaca):lời nói chân chính,trung thực.
+ Chính mệnh(samyak-samadhi):kiên định,tập trung vào con đường chân chính,không để bất cứ điều gì làm lay chuyển,phân tâm.
Trong tám nẻo đường này thì chính kiến,chính tư duy thuộc về trí tuệ(panna);chính ngữ,chính nghiệp,chính mệnh thuộc về Định(samadhi).
Đạo Phật còn đề ra những phương pháp trên con đường thực hành tu nghiệp là: “Ngũ giới” và“Lục độ”(sáu phép tu)…Trong những giai đoạn đầu với vũ trụ quan nhân duyên,đạo Phật đã có những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát.Về chính trị xã hội thì đạo Phật là tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt,tố cáo chế độ xã ghội bất công,đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội,nêu lên ước vọng giải thoát con người khỏi nỗi bi kịch của cuộc đời…Tuy nhiên,trong luận thuyết về nhân sinh và con đường giải thoát,tư tưởng Phật giáo còn hạn chế,mang nặng tính bi quan,yếm thế về cuộc sống,chủ trương“xuất thế”, “siêu thoát” có tính chất duy tâm,không tưởng về những vấn đề xã hội.
Sau khi đúc Phật tạ thế,các đệ tử của Người đã định kì họp lại.Và tại các cuộc họp càng về sau,sự bất đồng ý kiến giữa các chư tăng trong việc hiểu và giải thích kinh phật ngày càng gay gắt.Hàng ngũ Phật giáo do vậy chia làm hai phái:Phái của các vị trưởng lão gọi là Thượng Tọa(theravada) theo xu hướng bảo thủ,chủ trương bám sát kinh điển,giữ nguyeem giáo luật;Phật tử chỉ giác ngộ cho bản thân,chỉ thờ đúc Phật Thích-Ca và chỉ cầu sớm chứng quả La Hán.Phần đông tăng chúng còn lại không chịu nghe theo,họ khai hội nghị riêng,lập ra phái Đại Chúng(mahasanghika) chủ trương không câu nệ cố chấp vào kinh điển,khoan dung đại lượng trong việc thực hiện giáo luật,thu nạp rộng rãi tất cả những ai muốn quy y,giác ngộ,giải thoát cho nhiều người,thờ Phật,và nhân vật tiêu biểu là Bồ-Tát.
Tại các lần kiến tập thứ 3-4,phái Đại Chúng soạn ra kinh sách riêng và tự xưng là Đại Thừa(mahayana)nghĩa là“cỗ xe lớn”và gọi phái Thượng Tọa là Tiểu Thừa(hinayana) nghĩa là “cỗ xe nhỏ”.
Phái Đại Thừa phát triển lên phía Bắc nên được gọi là Bắc Tông,được phổ biến sang Trung Hoa,Nhật Bản,Triều Tiên…Còn phái Tiểu Thừa phát triển
xuống phía Nam nên được gọi là Nam Tông,từ trung tâmSrilanca(Tích Lan) phát triển sang các nước Đông Nam Á,trong đó có Việt Nam.Kinh sách Đại Thừa được viết bằng tiếng Sanscrit,còn kinh sách Tiểu Thừa được viết bằng tiếng Bali.
Chương II:ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
I.Qúa trình thâm nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam:
1.Bối cảnh ở Việt Nam:
Nước Việt Nam có hình chữ S,thuộc bán đảo Đông Dương,có vị thế 7/10 bán đảo Đông Dương,tiếp giáp với biển Trung Quốc và vịnh Băng Gan,được cấu thành bởi các dãy núi chạy từ Tây Tạng đến phía Đông và xòe ra biển như hình rẽ quạt.Giuwax các rặng núi là những thung lũng tạo thành các miền cao nguyên,bình nguyên và các sông lớn
Địa thế Việt Nam còn nằm giữa hai lục địa lớn và đông dân nhất thế giới là Trung Quốc Ân Độ.Hai quốc gia lớn này cũng có nền văn hóa rất sớm đối với nhân loại,trong đó có Việt Nam
Người Việt Nam,theo truyền thuyết,thuộc nòi giống Tiên Rồng.Nhưng theo các nhà sử học,dân tộc Việt Nam được hình thành có những thuyết như sau:
a. Tổ tiên Việt Nam gốc ở Tây Tạng.Vì đời sống,một bộ lạc theo lưu vực sông Hồng,dần hồi tràn xuống Trung Châu Bắc Việt-hạ lưu sông Dương Tử bị nước Sở đánh đuổi.Để lánh nạn,người Việt chạy về phía Nam miền Quảng Đông,Quảng Tây rồi từ từ đến bắc Việt và Bắc Trung Việt.Cũng từ đó,người Việt có truyền thống Nam tiến
b. Theo các nhà nhân chủng học thời thượng cổ:giống người Indonesia bị giống dân Aryan đánh đuổi,họ bỏ Ấn Độ chạy đến bán đảo Ân Độ Chi Na.Số người fân chạy về phía Nam lập thành nước Campuchia,Chiêm Thành theo văn hóa Ân Độ.Còn ssoos người ở phía Bắc kết hợp với giống Mông Cổ thành người Việt Nam
c. Theo các nhà dân tộc học:Việt Nam nằm giữa khu vực nối liền Ân Độ Dương và Thái Bình Dương,chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa cổ nhất là Ân Độ và Trung Quốc.Vì thế,Việt Nam là vùng quy tụ các thành phần dân tộc khác nhau với tám nhóm ngôn ngữ:Mường,Thái,Dao,Khơmer,Chăm,Nam Á..Nhưng thành phần người Kinh chiếm phần lớn,có ưu thế hơn.
Người Việt Nam có nhiều đặc tính quý báu:thông minh,sáng tạo,cần cù,nhẫn nại;yêu nước,yêu chuộng hòa bình;độ lượng,hài hòa…tinh thần tự lập tự cường,ý chí độc lập,đoàn kết,hợp quần…
Việt Nam là bán đảo nối liền hai quốc gia là Ân Độ và Trung Quốc to lớn.Con người Việt Nam lại có nhiều đặc tính ưu việt.Vì thế,Việt Nam đã tiếp nhận hai nền văn hóa tư tưởng có từ lâu đời trên thế giới qua đường thủy và đường bộ.
2.Thời đại Phật giáo du nhập:
Qua lịch sử,Phật giáo từ Ân Độ truyền vào Việt Nam cùng thời với con đường truyền qua Trung Quốc
Theo cuốn“Cổ sử các nước Ân Độ hóa ở vùng Viễn Đông” và cuốn Roman coinsINDIA-1964P.559-683 cùa R.Sewedl.Trong những năm đầu của công nguyên,các thương nhân hằng hải của Ân Độ qua miền Viễn Đông để buôn bán,đạo Phật đã theo bằng đường thủy qua Srilanca,Java,Inddônêxia,Ân Độ Chi Na và Trung Quốc.Ởnhững nơi thương nhân ghé lại,nơi thừa tự được
Lâp để nguyện câù bình an,may mắn.Từ dó,tư tưởng tôn giáo được thiết lập.
Theo cuốn“Ngô chí” của Trung Quốc vào đời Hán thì có nói:Sĩ Nhiếp trong buổi loạn lạc đã giữ yên quận Giao Châu,giúp dân an cư lạc nghiệp.Vì thế ông được người dân bản xứ tôn kính.Đi đâu ông cũng có người Hồ đi theo hai bên đường.Mà theo Sylvainlevi,Hồ là từ mà người Trung Quốc dùng để chỉ ngườiTrung Á hay Ân Độ.Như vậy,người Ân Độ ,kể cả các nhà sư có nhiều ở Giao Châu lúc bấy giờ.Bản thân Sĩ Nhiếp cũng đã theo đạo Phật,đi đâu cũng có các nhà sư đi theo…Như thế chứng tỏ là đạo Phật đã do các nhà sư Ân Độ đem vào Việt vào hạ bán thế kỉ thứ 2
Và con một số sách khác cho thấy rằng:Sinh hoạt Phật giáo đã bắt đầu ở Việt Nam từ đầu thế kỷ do các nhà buuoon đem vào.Rồi thực sự có các nhà sư theo thuyền buôn đến truyền đạo vào cuối thế kỷ thứ 2 và đầu thế kỷ thứ 3 bằng hai con đường là đường thủy và đường bộ.Vào các thế kỷ đầu ở Giao Châu,Phật Giaos đã cố một trung tâm lớn tại Luy Lâu-một trong ba trung tâm lớn của đế quốc nhà Hán
Trụ sở của quận Giao Chỉ là Luy Lâu đã sớm trở thành trung tâm quan trọng của Phật giáo.Tại đây với hoạt động truyền giáo của Khâu-Đà-La(Kasudla)đã xuất hiên truyền thuyết đầu tiên về Phật giáo Việt Nam với Thạch Quang Phật và Mang Nương Phật Mẫu.Từ đây những nhà sư Ân Độ như Ma-ha-kỳ-vực(Marajivaka)
Khâu Đà La(Kasudara),Khương Tăng Hội ( K’ang-seng-houei ),Chi Cương Lương Lâu (Kalaruci),Mâu Bác(meou-pô)
Do Phật giáo được truyền bá trực tiếp từ Âns Độ vào Việt Nam nên ngay từ đầu công nguyên từ Buddha (Bậc Giác Ngộ) tiếng phạn đã được phiên âm sang tiếng Việt là Bụt.Phật giáo Giao Châu lúc này mang màu sắc Tiểu Thừa Nam Tông, và trong mắt người Việt nông nghiệp,hình tượng Bụt được hình dung như vị thần dân dã toàn năng có mặt khắp nơi, luôn sẵn sàng xuất hiện để cứu giúp người tốt và trừng trị kẻ xấu.
Sau này,sang thế kỷ thứ 4-5 có thêm luồng ảnh hưởng của Phật Giáo Đại Thừa Bắc Tông từ Trung Hoa tràn vào không bao lâu, nó đã lấn át và thay thế luồng Nam Tông có từ trước đó. Khi ấy từ Buddha tiếng Phạn vào tiếng Hán được phiên âm thành Phật ngang đà,Phật đồ, vào tiếng Việt rút gọn thành Phật. Và từ đây từ Phật dần dần thay thế từ Bụt.
Từ Trung Hoa, có ba tông phái Phật giáo được truyền vào Việt Nam, đó là: Thiền tông,Tịnh Độ tông và Mật tông.
Việt Nam là xứ nông nghiệp, thiên nhiên ít được ưu đãi, nhiều thiên tai bão lụt, con người tin nhiều vào thần thánh, phép lạ,…bởi thế Mật giáo rất dễ du nhập. Các sư như Ma Ha Kỳ Vực, Khâu Đà La, Chi Cươn