Cùng với khoa học – công nghệ, vốn đầu tư, nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế xã hội ở nước ta. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của nhiều nước phần lớn nhờ vào nguồn nhân lực có chất lượng cao. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế khi mà sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt thì nguồn nhân lực đóng vai trò ngày càng quan trọng. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, khái niệm chỉ lực lượng lao động có học vấn, có trình độ chuyên môn cao và nhất là có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất, là một yếu tố then chốt nhằm phát triển kinh tế bền vững.
Các yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó người lao động đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong thời đại ngày nay nguồn nhân lực không những chỉ tăng lên về mặt số lượng mà đòi hỏi phải có sự nâng cao về chất lượng.
Nước ta tiến hành CNH – HĐH trong điều kiện là một nước nông nghiệp lạc hậu với đặc điểm là nguồn nhân lực dồi dào về số lượng. Đối với một nước đang phát triển như nước ta hiện nay thì nâng cao chất lượng người lao động, phát huy nhân tố con người để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước là một việc làm cấp thiết, đường lối đúng đắn. Nguồn nhân lực với trình độ tiên tiến sẽ là nhân tố thúc đầy nhanh tiến trình CNH – HĐH đất nước. Nguồn nhân lực chính là chìa khoá thành công trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhận thấy rõ vai trò quan trọng của nguồn nhân lực đối với việc phát triển nền kinh tế thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay cũng như tính cấp thiết của việc phát triển nguồn nhân lực một cách có hiệu quả, tôi chọn đề tài: “ Phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế thời kỳ quá độ ở Việt Nam”
Kết cấu của đề tài:
Phần I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
Phần II: THỰC TIỄN VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY
Phần III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
24 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4326 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế thời kỳ quá độ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI: PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM
Người thực hiện : Bùi Thị Hương
Lớp : Cao học 18C
Giáo viên hướng dẫn : TS. Lê Ngọc Thông
Hà Nội, 2010
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 2
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN 4
I/ NGUYÊN LÍ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN 4
1. Những quan điểm khác nhau về sự phát triển: 4
2. Tính chất của sự phát triểt 5
II/ PHÁT TRIỂN LLSX VỚI PHÁT TRIỂN KTXH 6
1. Quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX: 6
2. LLSX là yếu tố cách mạng nhất của sản xuất 9
3. Nguồn nhân lực 10
PHẦN II. THỰC TIỄN VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY 12
I. VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP CNH - HĐH ĐẤT NƯỚC 12
II. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN PHẢI PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÓ HIỆU QUẢ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 16
PHẦN III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ HIỆN NAY 18
1. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay 18
2. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ CNH – HĐH ở nước ta hiện nay 19
KẾT LUẬN 22
PHẦN MỞ ĐẦU
Cùng với khoa học – công nghệ, vốn đầu tư, nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế xã hội ở nước ta. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của nhiều nước phần lớn nhờ vào nguồn nhân lực có chất lượng cao. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế khi mà sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt thì nguồn nhân lực đóng vai trò ngày càng quan trọng. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, khái niệm chỉ lực lượng lao động có học vấn, có trình độ chuyên môn cao và nhất là có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất, là một yếu tố then chốt nhằm phát triển kinh tế bền vững.
Các yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó người lao động đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong thời đại ngày nay nguồn nhân lực không những chỉ tăng lên về mặt số lượng mà đòi hỏi phải có sự nâng cao về chất lượng.
Nước ta tiến hành CNH – HĐH trong điều kiện là một nước nông nghiệp lạc hậu với đặc điểm là nguồn nhân lực dồi dào về số lượng. Đối với một nước đang phát triển như nước ta hiện nay thì nâng cao chất lượng người lao động, phát huy nhân tố con người để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước là một việc làm cấp thiết, đường lối đúng đắn. Nguồn nhân lực với trình độ tiên tiến sẽ là nhân tố thúc đầy nhanh tiến trình CNH – HĐH đất nước. Nguồn nhân lực chính là chìa khoá thành công trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhận thấy rõ vai trò quan trọng của nguồn nhân lực đối với việc phát triển nền kinh tế thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay cũng như tính cấp thiết của việc phát triển nguồn nhân lực một cách có hiệu quả, tôi chọn đề tài: “ Phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế thời kỳ quá độ ở Việt Nam”
Kết cấu của đề tài:
Phần I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
Phần II: THỰC TIỄN VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY
Phần III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
I/ NGUYÊN LÍ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời.
1. Những quan điểm khác nhau về sự phát triển:
Có hai quan điểm khác nhau về sự phát triển, đó là quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng:
Quan điểm siêu hình: Xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi đơn thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, coi tất cả chất của sự vật không có sự thay đổi gì trong quá trình tồn tại của chúng. Sự vật ra đời với những chất như thế nào thì toàn bộ quá trình tồn tại của nó vẫn được giữ nguyên hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra trong một vòng khép kín. Họ cũng coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi về mặt lượng của từng loại và sự vật đang có chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những người theo quan điểm siêu hình còn xem sự phát triển là một quá trình tiến lên liên tục.
Quan điểm biện chứng: Quan điểm biện chứng đối lập với quan điểm siêu hình, xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao, diễn ra vừa dần dần vừa nhảy vọt, dẫn đến sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc.
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về nguồn gốc của sự phát triển, khẳng định nguồn gốc của sự phát triển năm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Nói cách khác, đó là quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, đó đó cũng là quá trình tự thân của mọi sự vật. Trái lại, những người theo quan điểm duy tâm hay quan điểm tôn giáo lại thường tìm nguồn gốc của sự phát triển ở thần linh, Thượng đế, các lực lượng siêu nhiên hay ở ý thức của con người.
2. Tính chất của sự phát triểt
Sự phát triển có 3 tính chất cơ bản: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Tính khách quan: Nguồn gốc sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật và không phụ thuộc vào ý thức của con người nên sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan.
Tính phổ biến: Tính phổ biến ở đây được hiểu là diễn ra ở mọi lĩnh vực và ở bất kỳ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan. Chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm, phạm trù mới có thể phản ánh đúng đắn hiện thực luôn vận động và phát triển.
Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng có quá trình phát triển không giống nhau và chịu sự tác động của nhiều yếu tố điều kiện khác nhau.
Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển cần phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật thành nhiều giai đoạn. Từ đó tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự việc tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại.
II/ PHÁT TRIỂN LLSX VỚI PHÁT TRIỂN KTXH
1. Quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX:
Trong quá trình lao động sản xuất, một mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiên - lực lượng sản xuất, mặt khác là quan hệ giữa người với người tức là quan hệ sản xuất. Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất đây là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ lịch sử loài người, là quy luật biến đổi phát triển của các phương thức sản xuất.
Lực lượng sản xuất là thể thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ sản xuất) và con người với kinh nghiệm, kỹ năng tri thức lao động của họ. Lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất, con người kết hợp sức lao động của mình với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động tạo thành sức mạnh khai thác giới tự nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của mình.
Lực lượng sản xuất bao gồm hai yếu tố cấu thành đó là tư liệu sản xuất và người lao động.
Tư liệu sản xuất gồm: Tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động: có công cụ lao động và những phương tiện lao động khác phục vụ trong quá trình sản xuất như những phương tiện vận chuyển, bảo quản sản phẩm. Đối tượng lao động là những vật có sẵn trong tự nhiên và cả những vật do con người tạo ra và được con người sử dụng trong quá trình sản xuất.
Con người: Chính là người lao động với kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức lao động của họ. Các yếu tố trong lực lượng sản xuất không thể tách rời nhau mà có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trong đó con người giữ vị trí hàng đầu. Tư liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng và khoa học ngày càng trở thành các lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội. Ngày nay lực lượng sản xuất có thêm một yếu tố mới tham gia vào quá trình của nó đó là khoa học.
Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kỹ thuật, trình độ kinh nghiệm kỹ năng lao động của con người, quy mô sản xuất, trình độ phân công lao động xã hội: Lực lượng sản xuất có trình độ cao, lực lượng sản xuất có trình độ thấp.
Trình độ của lượng sản xuất là khái niệm nói lên khả năng của con người thực hiện quá trình biến đổi và thích nghi với giới tự nhiên nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của mình thông qua công cụ lao động . Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sản phẩmcủa sự kết hợp giữa các nhân tố: Trình độ của công cụ lao động, trình độ tổ chức lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất, trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ phân công lao động.
Thời đại ngày nay, khoa học công nghệ đang ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học được ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất tri thức khoa học cũng là một bộ phận quan trọng trong kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động. Các yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó người lao động đóng vai trò quan trọng hàng đầu.
Quan hệ sản xuất biều hiện mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hợp thành phương thức sản xuất của xã hội.
Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của đời sống xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ, chúng tồn tại khách quan độc lập với ý muốn chủ quan của con người.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại với nhau. Trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định, là nội dung vật chất của quá trình sản xuất. Tương ứng với một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có thì cũng cần có một hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp nhằm bảo tồn, khai thác, sử dụng và phát triển lực lượng sản xuất. Đồng thời những biến đổi trong nội dung vật chất của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến sự biến đổi của các quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Còn nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Với hai nền sản xuất có lực lượng sản xuất tương đương song tính chất của quan hệ sản xuất khác nhau sẽ dẫn đến mục đích của sản xuất năng suất lao động khác nhau.
Dưới sự tác động của nhiều nhân tố như sự tích lũy dần kinh nghiệm mà trong thời đại ngày nay với sự tác động trực tiếp và nhanh chóng của các tri thức khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất thì lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi và phát triển. Nhưng sự biến đổi và phát triển đó trong một giới hạn nhất định thì chưa tạo ra nhu cầu khách quan của sự biến đổi các quan hệ sản xuất. Khi sự biến đổi đó tới một giới hạn nhất định cả về số lượng và chất thì tất yếu sẽ đặt ra nhu cầu khách quan là cải cách, cải tổ và cao hơn là một cuộc cách mạng tới tận cơ sở quan hệ sản xuất tư liệu chủ yếu.
Tuy nhiên quan hệ sản xuất không tự nó biến đổi mà phải cần đến những cuộc cải cách; cách mạng trên phương diện chính trị và thể chế Nhà nước, cơ chế Nhà nước vì những quan hệ sản xuất bao giờ cũng mang một hình thức pháp lý, chính trị văn hóa.
2. LLSX là yếu tố cách mạng nhất của sản xuất
Chủ nghĩa xã hội là hình thái kinh tế xã hội cao nhất trong lịch sử. Giai cấp công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến giữa vai trò lãnh đạo xã hội. Khi lực lượng sản xuất đạt đến trình độ xã hội hóa cao thì quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trở lên lỗi thời kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, nó phải được thay thế bằng một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn đó là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội là lực lượng sản xuất tiên tiến, có tính xã hội hóa cao mà đỉnh cao là chủ nghĩa cộng sản khi đó con người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu.
Phương thức sản xuất là tiêu chuẩn để phân biệt các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội loài người. Tính chất và kết cấu của xã hội như thế nào không phải do nguyện vọng, ý muốn chủ quan của con người cũng không do tư tưởng, lý luận quyết định mà do phương thức sản xuất quyết định.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự thay đổi, phát triển của phương thức sản xuất.
Dù hình thức xã hội của sản xuất như thế nào, người lao động và tư liệu sản xuất bao giờ cũng vẫn là những nhân tố của sản xuất. Muốn có sản xuất nói chung thì người lao động và tư liệu sản xuất phải kết hợp với nhau. Con người sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm cho xã hội. Lực lượng sản xuất là yếu tộ động, luôn luôn biến đổi dẫn đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất. Nếu mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thích hợp thì sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
Như vậy có thể nói rằng lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng nhất của sản xuất. Trong thực tế lịch sử xã hội loài người, sự phát triển của sản xuất đều được đánh dấu bằng sự tiến bộ không ngừng của lực lượng sản xuất. Các cuộc cách mạng kỹ thuật đã mang lại sự thay đổi vượt bậc của quá trình sản xuất xã hội về cách thức sản xuất, phương thức tổ chức quản lý.
3. Nguồn nhân lực
a/ Khái niệm
Theo Liên Hợp Quốc: “ Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”
Theo tổ chức lao động quốc tế: nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động.
Dưới góc độ của Kinh tế Chính trị: nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
b/ Phát triển Nguồn nhân lực:
Lý thuyết và thực tiễn phát triển ở tất cả các nước trên thế giới đã cho thấy nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do vậy, việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực.
Xuất phát từ cách tiếp cận về nguồn nhân lực khác nhau nên dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển nguồn nhân lực:
Theo Liên Hợp Quốc: phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Quan điểm khác cho rằng phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị cho con người về vật chất, tinh thần, trí tuệ, tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp. Làm cho con người trở thành người lao động có năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực . Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện của con người vì sự tiến bộ kinh tế- xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người.
C.Mác cho rằng con người là yếu tố quyết định trong lực lượng sản xuất.
PHẦN II. THỰC TIỄN VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY
I. VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP CNH - HĐH ĐẤT NƯỚC
Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn, con người sản xuất ra của cải vật chất tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người chính là chủ thể cải tạo tự nhiên. Con người là sản phẩm của tự nhiên song con người có thể thống trị tự nhiên nếu biết nắm bắt và tuân theo các quy luật của bản thân giới tự nhiên. Con người không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể cải tạo xã hội. Bằng hoạt động sản xuất con người sáng taọ ra toàn bộ nền văn hoá vật chất và tinh thần. Mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận động theo quy luật khách quan, nhưng trong quá trình hoạt động, con người luôn luôn xuất phát từ nhu cầu động cơ và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất định và do đó đã tìm cách hạn chế hay mở rộng phạm vi tác dụng của quy luật cho phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình.
C.Mác đ ã cho rằng con người là yếu tố quyết định trong lực lượng sản xuất.
Theo quan điểm của Đảng ta xác định công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Ở nước ta công nghiệp hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội; tăng cường sức mạnh để bảo vệ độc lập dân tộc. Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hóa của nước ta được Đảng cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội lần thức VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX là "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa"
Theo thống kê của Liên Hợp Quốc đến nay đã có tới 30 nước hoàn thành công nghiệp hóa. Người ta đã tổng kết và kể ra rất nhiều con đường công nghiệp hóa khác nhau: Công nghiệp hóa cổ điển và phi cổ điển. Nói tới CNH - HĐH người ta đến vốn và công nghệ hiện đại. Nhưng điều đó chỉ hoàn toàn đúng với con đường công nghiệp hóa cổ điển, kinh nghiệm của các nước công nghiệp hóa theo con đường thứ hai cho thấy hoàn toàn không phải như vậy mà nhân tố quan trọng nhất chính là con người.
CNH - HĐH là con đường duy nhất để phát triển nền kinh tế - xã hội đối với bất cứ quốc gia nào nhất là các nước chậm phát triển và đang phát triển. Con người - nguồn nhân lực với tư cách là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội chính là yếu tố quyết định nhất, động lực cơ bản nhất của quá trình CNH -HĐH. Thực tế đã chứng minh nguyên nhân dẫn đến sự thành công của các quốc gia vùng lãnh thổ có nền công nghiệp phát triển ở Châu Á. Họ đã có chính sách ưu tiên phát triển giáo dục hợp lý tạo ra nguồn nhân lực có tay nghề, chuyên môn kỹ thuật cao đáp ứng tốt cho công nghiệp hóa. Nếu như công nghiệp hóa của các nước Châu Âu kéo dài gần 100 năm thì các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo chỉ mất hai ba mươi năm đã xây dựng được một nền công nghiệp hiện đại. Như vậy, nguồn nhân lực trở thành yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng mang tính quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Đảng ta xác định nhân tố con người (vốn con người, vốn nhân lực) bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc là vốn quý nhất, quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội.