Tiểu luận Phép biện chứng duy vật cảm nhận và vận dụng

Trong các hoạt động nghiên cứu của con người về các sự vật, hi ện tượng, mỗi chúng ta có những phương pháp nghiên cứu khác nhau dựa vào cách nhìn nhận các sự vật hi ện tượng dưới nhiều góc độ khác nhau. Mặc dầu quan sát ở hệ quy chiếu nào đi chăng nữa, chúng ta cũng cần nắm bắt được bản chất và nguồn gốc của vấn đề. Đó là đi ểm chính của bức tranh về các sự vật và hiện tượng, nếu nắm rõ ta có thể đánh giá một cách chính xác về đối tượng mà ta nghiên cứu. Trong thực tế các sự vật và hiện tượng luôn vận động và phát triển không ngừng. Do vậy để nắm bắt được các quy luật, m ối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động của các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, chúng ta cần một học thuyết để dễ dàng nghiên cứu và tiếp cận nó. Học thuyết của Mác – Lênin đã đề cập các vấn đề này thông qua phép biện chứng duy vật. Đến nay, học thuyết này vẫn còn mang tính thời sự, vẫn được vận dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu về tự nhiên, về các hoạt động của xã hội của con người Trong chuyên đề này, các vấn đề được trình bày là về phép biện chứng duy vật và vận dụng phép biện chứng duy vật vào hoạt động nghiên cứu khoa học vật lý.

pdf16 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 24122 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phép biện chứng duy vật cảm nhận và vận dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT KHOA SAU ĐẠI HỌC . BÁO CÁO TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT CẢM NHẬN VÀ VẬN DỤNG Lâm Đồng, tháng 10/2014 Môn học: TRIẾT HỌC Giảng viên: ThS. BÙI LONG DUNG Học viên: PHẠM VĂN ĐẠO MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 I. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT ............................................................... 1 1.1 Khái niệm, đặc trưng và vai trò của phép biện chứng duy vật .................. 1 1.2 Các nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật ................................... 2 1.2.1 Hai nguyên lý cơ bản ............................................................................. 2 1.2.2 Ba quy luật cơ bản ................................................................................. 3 1.2.3 Sáu cặp phạm trù ................................................................................... 5 II. VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG VẬT LÝ HỌC 10 2.1 Góc nhìn triết học về khoa học vật lý ...................................................... 10 2.2 Vận dụng triết học duy vật biện chứng vào vật lý học và những kết quả nghiên cứu khoa học. ................................................................................... 11 III. KẾT LUẬN ............................................................................................ 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 14 1 MỞ ĐẦU Trong các hoạt động nghiên cứu của con người về các sự vật, hiện tượng, mỗi chúng ta có những phương pháp nghiên cứu khác nhau dựa vào cách nhìn nhận các sự vật hiện tượng dưới nhiều góc độ khác nhau. Mặc dầu quan sát ở hệ quy chiếu nào đi chăng nữa, chúng ta cũng cần nắm bắt được bản chất và nguồn gốc của vấn đề. Đó là điểm chính của bức tranh về các sự vật và hiện tượng, nếu nắm rõ ta có thể đánh giá một cách chính xác về đối tượng mà ta nghiên cứu. Trong thực tế các sự vật và hiện tượng luôn vận động và phát triển không ngừng. Do vậy để nắm bắt được các quy luật, mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động của các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, chúng ta cần một học thuyết để dễ dàng nghiên cứu và tiếp cận nó. Học thuyết của Mác – Lênin đã đề cập các vấn đề này thông qua phép biện chứng duy vật. Đến nay, học thuyết này vẫn còn mang tính thời sự, vẫn được vận dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu về tự nhiên, về các hoạt động của xã hội của con người Trong chuyên đề này, các vấn đề được trình bày là về phép biện chứng duy vật và vận dụng phép biện chứng duy vật vào hoạt động nghiên cứu khoa học vật lý. I. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT Triết học được coi là khoa học của mọi khoa học. Trong triết học, tư tưởng quan điểm của triết học Mác – xít đóng vai trò vô cùng quan trọng trong khoa học và đời sống hiện nay. Những tri thức của triết học đang là công cụ tu duy sắc bén và hiệu quả để con người nhận thức và tải tạo thế giới. Một trong những nội dung triết học đó chính là phép biện chứng duy vật. Sau đây là phần khái quát một số nội dung về phép biện chứng duy vật để làm cơ sở cho các phần nghiên cứu tiếp theo. 1.1 Khái niệm, đặc trưng và vai trò của phép biện chứng duy vật Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen cho rằng: “Phép biện chứng là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”. Chúng được chia thành hai loại: Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Biện chứng khách quan là đặc tính vốn có của thế giới (gồm tự nhiên và xã hội). Chúng vận động theo những quy luật khách quan mà không phụ thuộc vào ý thức. Biện chứng chủ quan là đặc tính của tư duy con người. Các khái niệm, phán đoán, tư tưởng trong đầu óc của con người, có liên hệ với nhau theo những quy luật nhất định. Biện chứng chủ quan là phản ánh của biện chứng khách quan. Tuy nhiên, không phải bất cứ tu duy của các cá nhân nào cũng phản ánh đúng biện chứng khách quan, đôi khi còn xuyên tạc, sai lệch biện chứng khách quan. Vì thế, phép biện chứng duy vật là lý luận, là khoa học nghiên cứu cả biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan nhằm đảm bảo tu duy của con người phản ánh đúng biện chứng khách quan. Đặc điểm của phép biện chứng duy vật bao gồm: Thứ nhất, phép biện chứng duy vật được xác lập trên cơ sở thế giới quan duy vật và sự khái quát các thành tựu khoa học. Thứ hai, có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật biện chứng với phương pháp luận biện chứng duy vật, do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới. Với những đặc trưng cơ bản trên, phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội dung 2 đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn. 1.2 Các nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật Nội dung của phép biện chứng duy vật gồm 2 nguyên lý, 6 cặp phạm trù và 3 quy luật cơ bản. 1.2.1 Hai nguyên lý cơ bản - Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Theo quan điểm biện chứng cho rằng, các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau.Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới. Dù chúng có đa dạng, phong phú bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất – thế giới vật chất. Nhờ tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng: liên hệ là phạm trù triết học, dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới. Tính chất của mối liên hệ: theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng và phong phú. Các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng. Các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. - Nguyên lý về sự phát triển Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn. Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về nguồn gốc của sự phát triển. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật và cũng là quá trình tự thân phát triển của mọi sự vật. Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực, quan điểm duy vật biện chứng khẳng định, phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. Theo quan điểm này, phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động nói chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận động – xu hướng vận động đi lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển của mình trong sự vật sẽ hình thành dần 3 dần những quy định mới cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận động, chức năng vốn có theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển cũng có ba tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng và phong phú. Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm phát triển. Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở đó để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người. Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. 1.2.2 Ba quy luật cơ bản Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Trong thế giới tồn tại nhiều loại quy luật, chúng khác nhau về mức độ phổ biến, về phạm vi bao quát, về tính chất, về vai trò của chúng đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Do vậy, việc phân loại quy luật là cần thiết để nhận thức và vận dụng có hiệu quả các quy luật vào hoạt động thực tiễn của con người. Nếu căn cứ vào mức độ của tính phổ biến để phân loại thì các quy luật được chia thành: những quy luật riêng, những quy luật chung và những quy luật phổ biến. Những quy luật riêng là những quy luật chỉ tác động trong phạm vi nhất định của các sự vật, hiện tượng cùng loại. Thí dụ: những quy luật vận động cơ giới, vận động hóa học, vận động sinh học... Những quy luật chung là những quy luật tác động trong phạm vi rộng hơn quy luật riêng, tác động trong nhiều loại sự vật, hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn: quy luật bảo toàn khối lượng, bảo toàn năng lượng... Những quy luật phổ biến là những quy luật tác động trong tất cả các lĩnh vực: từ tự nhiên, xã hội cho đến tư duy. Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật phổ biến đó. Nếu căn cứ vào lĩnh vực tác động để phân loại thì các quy luật được chia thành ba nhóm lớn: những quy luật tự nhiên, những quy luật xã hội và những quy luật của tư duy. Những quy luật tự nhiên là quy luật nảy sinh và tác động trong giới tự nhiên, kể cả cơ thể con người, không phải thông qua hoạt động có ý thức của con người. Những quy luật xã hội là quy luật hoạt động của chính con người trong các quan hệ xã hội; những quy luật đó không thể nảy sinh và tác động ngoài hoạt động có ý thức của con người, nhưng những quy luật xã hội vẫn mang tính khách quan. Những quy luật của tư duy là những quy luật thuộc mối liên hệ nội tại của những khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận và của quá tình phát triển nhận thức lý tính ở con người. Với tư cách là một khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật chung nhất, tác động trong toàn bộ các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Đó là quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại; quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập; quy luật phủ định của phủ định. 4  Quy luật chuyển hóa giữa lượng và chất Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo quy luật này, phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển là: những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng có cơ sở tất yếu từ những sự thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng và ngược lại; những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng tại tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng trên các phương diện khác nhau. Đó là mối liên hệ tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. - Khái niệm chất, lượng Chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật hiện tượng. Như vậy, tạo thành chất của sự vật, hiện tượng chính là các thuộc tính khách quan vốn có của nó nhưng khái niệm chất không đồng nhất với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật và hiện tượng. Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của nó thay đổi. Việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản của sự vật, hiện tượng phải tùy theo quan hệ cụ thể của sự phân tích; cùng một thuộc tính, trong quan hệ này là cơ bản thì trong quan hệ khác có thể là không cơ bản. Lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan của sự vật, hiện tượng về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Với khái niệm này cho thấy: một sự vật, hiện tượng có thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác định bằng các phương thức khác nhau phù hợp với từng loại lượng cụ thể của sự vật, hiện tượng đó. Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện đó đều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức về sự vật, hiện tượng chỉ có ý nghĩa tương đối: có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng. - Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất là lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn đến sự chuyển hóa về chất của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng bất kì nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là độ. Sự vận động biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Tóm lại, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời chất mới sẽ tác động trở lại lượng, tạo ra những biến đổi 5 mới về lượng của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. - Ý nghĩa của phương pháp luận Vì bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng. Vì những thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng có khả năng tất yếu chuyển hóa thành những thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng và ngược lại, do đó, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng. Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự vật, hiện tượng với điều kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút, do đó, trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu quy luật thì khi lượng đã được tích lũy đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất sự vật, hiện tượng. Vì thế cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp quy luật, chủ quan, duy ý chí, không tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy liên tục về chất. Hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện bước nhảy mặc dù lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ đơn thuần là sự tiến hóa về lượng. Vì bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất. Các quy luật dưới đây xem trong giáo trình [1],  Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập;  Quy luật phủ định của phủ định. 1.2.3 Sáu cặp phạm trù  Cái riêng và cái chung - Khái niệm “cái riêng” và “cái chung” Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường tiếp xúc với những sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau như: Cái bàn, cái nhà, cái cây cụ thể v.v. Mỗi sự vật đó được gọi là một cái riêng, đồng thời, chúng ta cũng thấy giữa chúng lại có những mặt giống nhau như những cái bàn đều được làm từ gỗ, đều có màu sắc, hình dạng. Mặt giống nhauđó người ta gọi là cái chung của những cái bàn. Vậy cái riêng là phạm trù chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định. Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Cần phân biệt “cái riêng” với “cái đơn nhất”. “Cái đơn nhất” là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác. 6 - Quan hệ biện chứng giữa “cái riêng” và “cái chung” Trong lịch sử triết học đã có hai quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa “cái riêng” và “cái chung”: Phái duy thực cho rằng, “cái riêng” chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua, không phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có “cái chung” mới tồn tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức của con người. “Cái chung” không phụ thuộc vào “cái riêng”, mà còn sinh ra “cái riêng”. Theo Platôn, cái chung là những ý niệm tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những cái riêng chỉ có tính chất tạm thời. Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định; còn phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố, những quan hệ... lặp lại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng. - Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung Theo quan điểm duy vật biện chứng: cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khá