Việt Nam ta trong thời kỳ này đang là một đất nước mới dành được độc lập, còn gặp nhiều khó khăn trong cả kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội. Đặc biệt là trong thời kỳ này các thế lực thù địch bên ngoài luôn muốn tìm cách để phá hoại, tạo mâu thuẫn trong Đảng bộ nước ta, cũng như các nước anh em lân cận. Với mong muốn làm cô lập ta với thế giới bên ngoài khiến ta không có khả năng để khôi phục lại đất nước. Nhưng với những chính sách khôn khéo ta đã làm sụp đổ âm mưu của các thế lực thù địch, khiến cho cả những nước lớn mạnh như Mỹ cũng phải công nhận ta với thế giới.
Sau những khó khăn đó việc ta thiết lập quan hệ với các nước và các tổ chức là điều không thể thiếu để xây dựng lại đất nước. Sau đó là một loạt những hoạt động mà nhà nước ta đã thực hiện, đăc biệt là việc ta gia nhập tổ chức ASEAN sau một thời gian dài xung đột, có thể nói việc gia nhập ASEAN là một bước tiến lớn trong lịch sử của Việt Nam.
Vậy những kết quả mà Việt Nam đã đạt được là gì? Những khó khăn mà Việt Nam đã trải qua trong quá trình ra nhập ASEAN ra sao? Và tại sao phải đến năm 1995 Việt Nam mới ra nhập ASEAN sẽ được nói trong phần phân tích dưới đây.
15 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 14003 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quá trình gia nhập Asean của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO VIỆT NAM
Khoa chính trị quốc tế và ngoại giao Việt Nam
BÀI TIỂU LUẬN
( MÔN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI II)
ĐỀ TÀI:
QUÁ TRÌNH GIA NHẬP ASEAN CỦA VIỆT NAM.
TÊN NHÓM: GẤU TRÚC
TÊN SINH VIÊN:
1. Cháng Mí Gió. CT36H
2. Cứ Thị Mây. CT36H
3. Lừu Thị Tỉnh. CT36H
4. Nguyễn Thị Tố Tâm. CT36H
Hà Nôi, ngày 15 tháng 3 năm 2011.
MỤC LỤC
Lời mở đầu…………………………………………………………….…… 3
I- Tổng quan về tình hình thế giới và khu vực………………………….…...4
1. Tình hình thế giới…………………………………………………….…...4
2. Tình hình các nước ĐNÁ…………………………………………….…...5
3. Tình hình của Việt nam……………………………………………….…..5
II- Quá trình gia nhập ASEAN của Việt nam………………………….…….6
A. Trước khi đổi mới………………………………………………….……..6
1. Khó khăn và thuận lợi…………………………………………………….6
2. Chính sách đối ngoại của Việt nam với ASEAN………………………….6
3. Chính sách đối ngoại của ASEAN với Việt nam………………………….7
B. Sau khi đổi mới…………………………………………………………...8
1. Khó khăn và thử thách…………………………………………………… 8
2. Chính sách đối ngoại của Việt nam với ASEAN……………………….…8
3. Chính sách đối ngoại của ASEAN với Việt nam……………………….…9
4. Hội nghị kết nạp Việt nam chính thức trở thành thành viên của ASEAN...9
III- Nhìn nhận lại những khó khăn mà Việt nam đã trải qua để trở thành thành viên của ASEAN…………………………………………………….10
1. Đối nôi…………………………………………………………………...10
2. Đối ngoại…………………………………………………………….…..10
IV- Đánh giá và nhân xét về chính sách của Việt Nam với ASEAN trong thời gian qua, hướng phát triển của Việt Nam và ASEAN trong thời gian tới….11
1. Đánh giá và nhận xét…………………………………………………….11
2. Hướng phát triển…………………………………………………………12
Tổng kết…………………………………………………………………….13
Lời mở đầu
Việt Nam ta trong thời kỳ này đang là một đất nước mới dành được độc lập, còn gặp nhiều khó khăn trong cả kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội. Đặc biệt là trong thời kỳ này các thế lực thù địch bên ngoài luôn muốn tìm cách để phá hoại, tạo mâu thuẫn trong Đảng bộ nước ta, cũng như các nước anh em lân cận. Với mong muốn làm cô lập ta với thế giới bên ngoài khiến ta không có khả năng để khôi phục lại đất nước. Nhưng với những chính sách khôn khéo ta đã làm sụp đổ âm mưu của các thế lực thù địch, khiến cho cả những nước lớn mạnh như Mỹ cũng phải công nhận ta với thế giới.
Sau những khó khăn đó việc ta thiết lập quan hệ với các nước và các tổ chức là điều không thể thiếu để xây dựng lại đất nước. Sau đó là một loạt những hoạt động mà nhà nước ta đã thực hiện, đăc biệt là việc ta gia nhập tổ chức ASEAN sau một thời gian dài xung đột, có thể nói việc gia nhập ASEAN là một bước tiến lớn trong lịch sử của Việt Nam.
Vậy những kết quả mà Việt Nam đã đạt được là gì? Những khó khăn mà Việt Nam đã trải qua trong quá trình ra nhập ASEAN ra sao? Và tại sao phải đến năm 1995 Việt Nam mới ra nhập ASEAN sẽ được nói trong phần phân tích dưới đây.
I- Tổng quan về tình hình thế giới và khu vực
1. Tình hình thế giới
Trong những thập niên 70, 80 của thế kỷ 20, trên thế giới có những biến đổi rất lớn, chiến tranh lạnh mặc dù có dấu hiệu hòa hoãn nhưng nó vẫn luôn đặt nhân loại sống trong sự đe dọa của vũ khí hạt nhân, xung đột khu vực xảy ra ở khắp nơi, và vấn đề khủng hoảng dầu mỏ 1973 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nước TBCN, khiến các nước này phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế mới.
Các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đang diễn ra hết sức mạnh mẽ ở khắp các châu lục Á, Phi và Mỹlatinh.
a. Nước Mỹ.
Giai đoạn này Mỹ và Liên Xô đã có sự cân bằng về vũ khí hạt nhân, cuộc chạy đua vũ trang trong mấy chục năm qua không đem lại kết quả gì, mà nó còn gây ra những xung đột lớn với sự xuất hiện của vũ khí hạt nhân ở nhiều khu vực trên thế giới.
Mỹ và Liên Xô bị thiệt hại nặng nề trong công cuộc chạy đua vũ trang, điều đó đã giúp cho các nước đồng minh khác có cơ hội kiếm lợi nhuận và giành vị trí trên trường quốc tế, đăc biệt là ở Châu Á với sự lớn mạnh nhanh chóng của Trung Quốc, Nhật Bản thực sự là những đối trọng của Mỹ và Liên Xô ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương.
Nước Mỹ bị dư luận trong nước phản đối kịch liệt về cuộc chiến tranh ở Việt Nam và những khoản đầu tư quá lớn vào cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xô, đã làm cho nước Mỹ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất khi cuộc khủng hoảng nổ ra.
b. Liên Xô và các nước XHCN
Trong khi các nước TBCN rơi vào cuộc khủng hoảng thì Liên Xô và các nước XHCN lại có những bước phát triển vựơt bậc.
Sau khi Liên Xô đạt được những thỏa thuận trong việc cắt giảm vũ khí hạt nhân với Mỹ bằng các hiệp ước salt – 1, salt – 2 và cắt giảm hệ thống phòng thủ tên lửa,Liên Xô đã có thời gian để xây dựng lại đất nước và giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Tuy vậy, vào những năm cuối thập kỷ 80, các nước XHCN lại lâm vào khủng hoảng trầm trọng, sự duy ý chí, chậm nhận thức để thay đổi chính sách phù hợp với thời đại của các nhà lãnh đạo ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, đã khiến các nước này sụp đổ trong một thời gian ngắn tồn tại. Trong khi đó các nước TBCN lại vựơt lên mạnh mẽ nhờ những chính sách mới.
c. Trung Quốc.
Các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, TBCN thì gặp khủng hoảng và đây là cơ hội tốt để Trung Quốc vươn lên, mặc dù họ phải trải qua cuộc khủng chính trị nội bộ trong nước cái gọi là“ cách mạng văn hóa” . Kể từ năm 1978, Đại hội đảng toàn quốc của nhân dân Trung Hoa đã tiến hành thay đổi chính sách bằng việc: Xây dựng Trung Quốc đi lên CNXH mang bản sắc Trung Quốc, lấy kinh tế làm trọng tâm, đăc biệt là chính sách mở cửa của Trung Quốc với thế giới bằng khẩu hiệu: “ Mèo trắng mèo đen đều được, miễn là bắt được chuột” , ngay sau đó Trung Quốc đã nhận được sự ủng hộ của nhiều nước trên thế giới nhất là Mỹ, nhờ đó đã giúp Trung Quốc đạt được những thắng lợi to lớn. Lúc này họ lại tiếp tục bản chất cũ kỹ và cụ thể hóa khẩu hiêu đối ngoại của họ bằng cách chống Liên Xô và câu kết với Mỹ tạo dựng nên vấn đề Campuchia gây khó khăn cho Việt nam và các nước ĐNÁ.
2. Tình hình Đông Nam Á
Có thể nói tình hình các nước Đông Nam Á luôn chịu ảnh hưởng của các nước bên ngoài, do vậy lúc căng thẳng, lúc hòa dịu.
Sự xuất hiện về vấn đề Campuchia do Mỹ và Trung Quốc gây dựng nên tiếp tục làm hai bên càng thêm căng thẳng, mặc dù trước đó khu vực đã tam thời hòa hoãn sau khi Việt nam giành thắng lợi trong cuộc chống Mỹ cứu nước.
Đông Nam Á là khu vực có vị trí chiến lược hết sức quan trọng nên luôn bị các nước lớn đặt làm mục tiêu xâm chiếm, vì vậy để bảo vệ nền độc lập của quốc gia mình, thì các nước phải liên kết giúp đỡ nhau, ý tưởng đó của các quốc gia này đã được cụ thể bằng hội nghị thành lập ASEAN vào tháng 6/1967 tai Bangcok Thái Lan gồm 5 nước: Thái lan, Indonesia, Malaysia, Philippin và Xingapo.
ASEAN là hiệp hội các nước Đông Nam Á với mục tiêu chung là hòa bình, tự do, trung lập, không cho phép sự can thiệp dưới bất cứ hình thức hoặc phương cách nào của các cường quốc bên ngoài.
3. Tình hình của Việt nam.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta liên tiếp đạt được những thắng lợi to lớn. Kể từ năm 1968 ta làm thất bại chiến tranh cục bộ của Mỹ buộc Mỹ phải tính đến ngồi đàm phán với ta, đến năm 1975 đất nước được thống nhất.
Sau khi giành được độc lập, hai miền Nam Bắc lần đầu được thống nhất sau thời gian dài bị các nước lớn đô hộ, nhưng cũng gặp phải những khó khăn lớn, việc đầu tiên sau khi độc lập ta phải tính đến việc xây dưng bộ máy chính trị sao cho phù hợp với cả hai miền tránh sự can thiệp của các thế lực thù địch.
Vấn đề Campuchia do Mỹ và Trung Quốc dựng lên cộng với việc Mỹ cấm vận Việt Nam đã gây cho ta rất nhiều khó khăn về cả đối ngoại và đối nội.
II- Quá trình gia nhập ASEAN của Việt nam.
A- Trước khi đổi mới.
1. Khó khăn và thuận lợi
a. Khó khăn:
Đây là thời kỳ rất khó khăn của Việt nam, chúng ta vừa trải qua cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm lịch sử với tên đầu sỏ đế quốc hùng mạnh nhất thế giới.
Một số quốc gia trong khối ASEAN là đồng minh của Mỹ, đã từng tham gia vào cuộc chiến ở Việt nam, do đó việc hai bên nói chuyện với nhau là rất khó, nên nếu ta tham gia vào tổ chức sẽ đối mặt với sự phản đối của nhân dân trong nước.
Việt Nam mới ra khỏi chiến tranh nên chưa hiểu rõ luật chơi của tổ chức, kinh tế thì lạc hậu không đáp ứng được với những mục tiêu và nguyên tắc của ASEAN.
b. Thuận lợi:
Ta vừa giành được độc lập, do vậy rất cần sự giúp đỡ của các nước trong khu vực, nếu ta có được quan hệ tốt với ASEAN sẽ có cơ hội để khôi phục kinh tế, vừa có bạn chống lại âm mưu của Mỹ và Trung Quốc.
Gia nhập ASEAN Việt Nam có cơ hội để nói tiếng nói của mình trên trường quốc tế, và được giao lưu với nhiều nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới, vì đây là bán đảo có vị trí chiến lược quan trọng, là điểm nối giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, là khu vực rất năng động và là nơi giải quyết các mâu thuẫn, xung đột trên thế giới.
2. Chính sách đối ngoại của Việt nam
Có thể nói trong thời gian 1976-1978 là bước khởi đầu tốt đẹp của quan hệ giữa ta và các nước ASEAN, năm 1976 ta công bố chính sách 4 điểm xác định rõ ràng chính sách quan hệ láng giềng hữu nghị đối với các nước Đông Nam Á, chủ yếu là các nước ASEAN, nói lên mong muốn chân thành hữu nghị, hợp tác Đông Nam Á cùng tồn tại hòa bình dẫn dến các nước ASEAN đều tỏ ra hoan nghêng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 đảng cộng sản Việt Nam 15-18/12/1986 có nêu:
“ Trên tinh thần bình đẳng, bảo đảm độc lập, chủ quyền và tôn trọng lẫn nhau sẵn sàng đàn phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, bình thường hóa quan hệ và khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới” .
Ngay sau khi đất nước thống nhất, Đảng ta đã đề ra chính sách mở cửa ra bên ngoài mong muốn được đối thoai trực tiếp với các nước trong khu vực Đông Nam Á, nhưng với điều kiện các nước này phải cho quân đội Mỹ rút hết quân ra khỏi các nước này và không cho bất cứ quân đôi của nước nào vào và xây dưng căn cứ quân sự nhằm phá hoại hòa bình trong khu vực.
Bước đầu chính sách của ta đã có những kết quả, đã hình thành những cuộc găp gỡ giữa các nhà lãnh đạo như Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đi thăm các nước ASEAN, tạo dựng quan hệ song phương với từng quốc gia.
3. Chính sách của ASEAN với Việt Nam.
Nhận biết được tình hình trên chiến trường Việt Nam đang bất lợi cho Mỹ, các nước ASEAN đã phải thay đổi chính sách với Mỹ và Việt Nam.
Sau khi thành lập hiệp hội các nước Đông Nam Á, ASEAN đã mong muốn Việt Nam sớm trở thành thành viên của ASEAN.
Tại sao ASEAN muốn Việt nam sớm gia nhập tổ chức? có thể nói Việt nam là nước có vị trí thuận lợi trong khu vực Đông Nam Á, có nền quân sự rất mạnh mẽ. Trên thế giới lúc bấy giờ không có được mấy nước dám đối đầu trực tiếp với Mỹ, ngay cả Liên Xô hay Trung Quốc là những nước lớn mạnh trong thời kỳ này cũng chưa dám đối đầu trực tiếp với Mỹ trên mặt trận chiến trường.
Việt Nam lại là nước đi theo con đường XHCN, nếu chính sách đưa ra không đúng đắn sẽ ảnh hưởng tới nhân dân các nước này, hơn nữa phía bắc Việt nam là Trung Quốc một nước XHCN khác có tham vọng lớn và đủ sức cạnh tranh với bất cứ quốc gia nào có ý định xâm chiếm khu vực Đông Nam Á.
Trung Quốc cũng đã nhiều lần gây khó dễ cho Đông Nam Á, nếu giờ để Việt Nam và Trung Quốc liên kết lại với nhau thì Đông Nam Á sẽ bị nguy hiểm. Lúc này CNXH trên thế giới đang phát triển rất mạnh, các nước TBCN thì bắt đầu lâm vào cuộc khủng mới, hơn nữa nước Mỹ ở rất xa nên không thể lúc nào cũng giúp đỡ được.
Từ những nhận định trên các nước Đông Nam Á muốn Việt Nam sớm ra nhập vào tổ chức trong khu vực để có thể kiềm chế Việt nam bằng những nguyên tắc của hiệp hội, đồng thời có thể cùng Việt nam đối phó lại với Trung Quốc và các nước lớn khác đang có ý định quay trở lại Đông Nam Á.
B-Thời kì sau đổi mới
1. Khó khăn và thuận lợi:
a. Khó khăn:
Thời kì này Việt nam dù đã dần khôi phục lại đất nước nhưng cũng gặp phải không ít khó khăn.
Kinh tế trong nước lạc hậu, trong bộ máy chính trị xuất hiên nhiều vấn đề yếu kém trong khâu lãnh đạo và quản lý làm cho đất nước ngày càng bị cô lập với thế giới.
Vấn đề Campuchia vẫn chưa được giải quyết, tình hình khu vực tiếp tục căng thẳng.
Cuối những năm 80, đầu 90 Liên Xô và các nước Đông Âu lâm vào khủng hoảng rồi đi đến sụp đổ, Việt Nam không nhận được viện trợ của bất cứ quốc gia Đông Âu nào, kể cả Liên Xô.
Năm 1989, Mỹ tuyên bố cấm vận Việt nam làm cho ta lại càng thêm khó khăn hơn, ngay cả nhưng nước không phải đi theo XHCN nhưng là bạn của ta cũng ngừng quan hệ với Việt nam.
Các nước Đông Nam Á thì lên án gay gắt hành động đem quân và đóng quân ở campuchia của Việt nam.
b. Thuận lợi:
Trước đây mối quan hệ của Việt Nam và ASEAM vốn đã được thiết lập từ trước, nhưng từ sau sự kiện 7- 1- 1979 sự có mặt của quân đội Việt Nam tại Campuchia đã làm cho các nước Đông Nam Á lo ngại. Họ lo rằng chiến tranh có thể mở rộng và phá hoại đến môi trường hòa bình, sẽ đe dọa đến an ninh của họ.
Trước khi đổi mới thì hai bên vẫn mong muốn hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau trước sư xâm lược của bên ngoài.
Vì vậy có thể nói đây là cơ hội thuận lợi để Việt Nam và ASEAN thắt chặt mối quan hệ.
2. Chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN trong giai đoạn này.
Có thể nói trong giai đoạn này so với giai đoạn trước đó, dù khó khăn không ít đi nhưng đã có những thắng lơi nhất định.
Năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần VI đã xác định lại cơ cấu quản lý mới, xóa bỏ cơ cấu quản lý bao cấp. Đổi mới toàn diên, xây dựng Viêt nam đi lên chủ nghĩa xa hội, bỏ qua giai đoạn TBCN, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đề ra chính sách đối ngoại mới phù hợp với sự phát triển của thời đại.
Năm 1989, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, làm cho các mối quan hệ trong khu vực trở nên hòa dịu hơn.
Đại hội lần VII năm 1991 của Đảng ta một lần nữa khẳng định chính sách đối ngoại của ta ra thế giới với khẩu hiệu: “Việt nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, ổn định và cùng phát triển, tôn trọng chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau” .
Khẩu hiệu đó ít nhiều cũng thể hiện cho nhân dân thế giới biết về sự yêu chuộng hòa bình của nhân dân Việt nam, để nhân dân thế giới tác động đến những người lãnh đạo của họ, khi đó từ một quốc gia sẽ mở rộng ra nhiều nước muốn tìm hiểu và làm bạn với ta. Đó cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc xóa bỏ lệnh cấm vận của Mỹ với Việt nam vào ngày 3 tháng 2 năm 1994, khiến Mỹ phải tuyên bố rằng “Khu vực Đông Nam Á sẽ ổn định hơn nếu Việt Nam sớm tham gia vào các tổ chức quốc tế, khu vực, đặc biệt ủng hộ Việt Nam nhanh chóng gia nhập ASEAN”.
3. Chính sách đối ngoại của ASEAN với Việt nam.
Sau khi Việt nam đổi mới đất nước 1986, với những chính sách mở cửa mới, đặc biệt năm 1989 Việt nam đã rút quân ra khỏi đất Campuchia thì sự căng thẳng giữa hai bên đã dần được gỡ bỏ.
Với chính sách đối ngoại của Đại hội Đảng lần VII như đã nêu ở trên , khiến cho mối quan hệ giữa hai bên trở nên thân thiện hơn và đặt ra các cuôc gặp gỡ để tìm hiểu về nhau bình thường hóa quan hệ cũng được đặt ra nhiều hơn. Ví dụ: …..
Đến ngày 22 tháng 7 năm 1992, tán thành những nguyên tắc của tổ chức ASEAN tại Manila của Philippin, Việt Nam và Lào đã trở thành quan sát viên chính thức.
Việt Nam và các nước thành viên ASEAN đã ký kết với nhau và thỏa thuận nhiều vấn đề quan trọng trong khu vực như: Việt nam thỏa thuận với Malaysia cùng khai thác vùng chồng lấn; Việt Nam thỏa thuận với Thái Lan về hợp tác trật tự trên vịnh Thái Lan; Việt nam và Philippin thỏa thuận về nguyên tắc ứng xử cơ bản trong khu vực tranh chấp ở trường sa…
4. Hội nghị kết nạp Việt Nam chính thức trở thành thành viên của ASEAN.
Có thể nói sau khi ra nhập ASEAN (7- 1995), Việt Nam và ASEAN lại có thêm những điều kiện thuận lợi hơn hiệu quả hơn để phát triển mối quan hệ song phương giữa hai bên. Những vấn đề tồn tại giữa hai nước đã và đang từng bước được giải quyết thông qua thương lượng và ngày càng thuận lợi hơn.
III- Tóm tắt lại những khó khăn mà Việt Nam đã vượt qua để gia nhập ASEAN.
Trong thời gian này Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn cả về đối nội và đối ngoại.
1. Đối nội.
Với tư tưởng là người thắng nhân dân Việt Nam vẫn không muốn kết bạn với những nước đã tham gia vào cuộc chiến đẫm máu ở Việt Nam.
Chính quyền còn non trẻ, điều kiện kinh tế của đất nước còn gặp nhiều khó khăn chưa đáp ứng được yêu cầu của tổ chức.
2. Đối ngoại.
Các thế lực thù địch luôn muốn thực hiện “diễn biến hòa bình” và cấu kết với bọn phản động trong nước để lật đổ chính quyền của ta, mà tiêu biểu là Mỹ và Trung Quốc.
Vậy thực sự họ muốn gì ở Việt Nam?
a. Trung Quốc.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều, tuy vậy kèm theo sự giúp đỡ đó cũng là những âm mưu nhằm hại ta.
Nhìn lại quá trình đấu tranh của ta luôn có sự can thiệp của nhiều nước lớn. Năm 1954 hội nghị giơ-ne-ver về lập lại hòa bình ở Việt Nam, Trung Quốc và Pháp rồi Mỹ liên tiếp có những cuộc gặp bí mật và kết quả là Trung Quốc đã đạt những lợi lộc khi chia cắt Việt Nam thành hai miền từ vĩ tuyến 17.
Đến 1967, Việt Nam lên tiếng kêu gọi Mỹ ngừng ném bom miền bắc, được tất cả các nước XHCN và nhân dân yêu hoà bình trên thế giới ủng hộ thì Trung Quốc lại phản đối kịch liệt. Trung Quốc cho rằng: “cái nút của vấn đề Việt Nam không phải là Mỹ ngừng ném bom miền bắc mà là ở chỗ quân xâm lược phải rút khỏi Việt Nam, đình chỉ cuộc xâm lược với toàn cõi Việt Nam, để cho nhân dân Việt Nam tự giải quyết lấy vấn đề của mình, chứ không phải là ở chỗ ném bom hay không nem bom”.
Trong khi Việt Nam tiến hành đàm phá với Mỹ thì Trung Quốc cho rằng không nên, họ luôn tìm mọi cách để giữ cuộc chiến ở Việt Nam, 1970 Mao Trạch Đông nói rằng: “Tôi sẵn sàng đón Nich-xơn sang thăm Trung Quốc với bất cứ danh nghĩa gì, Tổng thống hay khách du lịch và những vấn đề giữa Trung Quốc và Mỹ chỉ có thể giải quyết với Nich-xơn mà thôi”.
Trung Quốc tiếp tục tìm cách quan hệ với Mỹ, để phòng Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ trước, bằng việc dựng nên câu chuyện ở Campuchia và gây chiến tranh biên giới với Viêt Nam. Trong cuộc gặp gỡ giữa Nich-xơn và Đặng Tiểu Bình ở Oasinhton, Đặng Tiểu Bình nói rằng: “nếu Việt Nam đem quân sang Campuchia, Trung Quốc sẽ cho Việt Nam một bài học, nhưng Trung Quốc sẽ không đánh lớn…” Trung Quốc thỏa thuận với Việt Nam rằng nếu Việt Nam rút quân ra khỏi Campuchia thì Trung Quốc sẵn sàng đàm phán với Việt Nam về bình thường hóa quan hệ hai nước, nhưng thực chất ý đồ của Trung Quốc là dùng Liên Xô ép Việt Nam, dùng vấn đề Campuchia để cải thiện quan hệ Trung- Xô, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy quan hệ Trung- Mỹ.
Nhưng rồi cuộc kháng chiến chính nghĩa của ta cũng giành thắng lợi, bằng sức mạnh của toàn dân và sự ủng hộ của nhân dân yêu hòa bình trên thế giới.
Tóm lại tất cả những hành động trên của Trung Quốc với việc cản trở quan hệ của Việt Nam với Mỹ và với ASEAN nhằm mục đích:
Giữ Việt nam làm lá chắn, muốn biến Việt Nam thành quân bài để trao đổi với Mỹ phục vụ cho kinh tế Trung Quốc, dùng Việt Nam để đổi lấy đảo Đài Loan từ Mỹ. Trung Quốc muốn can thiệp vào Việt Nam để khẳng đinh tầm ảnh hưởng và sức mạnh của mình.
b. Mỹ.
Đối với Mỹ thì Việt Nam là nước cờ quan trọng ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, là nơi có thể ngăn chặn sự thâm nhập của CNXH vào Đông Nam Á nên họ muốn giữ chân Việt Nam.
Họ đã phải chịu sự lên án của thế giới và bản thân họ cũng không chịu đươc sự thất bại cay đắng khi mình là người đi xâm chiếm, đồng thời Mỹ là một nước có nền quân sự mạnh nhất thế giới lại thua một nước nhỏ bé như Việt Nam.
Nếu kìm được chân Việt Nam dần dần họ sẽ đưa vào Việt Nam những cái gọi là dân chủ của Mỹ, đồng thời có Việt Nam họ cũng dành đươc vị trí quan trọng hơn Liên Xô ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, hạn chế được sự lớn mạnh của XHCN.
IV- Đánh giá, nhận xét về chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN trong thời gian qua, phương hướng phá