Trong thời đại ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một tất yếu khách quan, và là xu thế của thời đại, có tác động mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới. Đến nay, trên thế giới đã có đến hàng trăm hình thức tổ chức liên chính phủ và hàng nghìn hình thức tổ chức phi chính phủ hoạt động trong hầu hết tất cả các lĩnh vực kinh tế-chính trị-xã hội. Trong đó, có những tổ chức
kinh tế và thương mại quốc tế và các tổ chức liên kết kinh tế và thương mại đặc thù theo khu vực như khu mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR), tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), và đỉnh cao của sự hội nhập trong lĩnh vực kinh tế và thương mại thế giới là sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới (WTO).
59 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 9335 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quá trình gia nhập WTO - Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG NGUYÊN LÍ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN
TIỂU LUẬN
QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO-CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Nhóm thực hiện:G.STAR
Mã lớp HP:211200719
GVHD:Nguyễn Lâm Thanh Hoàng
TIỂU LUẬN:
QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO-CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Nhóm thực hiện: G.STAR
1. Trần Thị Kim Anh 10247061 2.Lam Tiểu Giao 10302941 3.Nguyễn Thị Bích Hiệp 10286051
4. Ngô Viết Cẩm Ly 10270921 5.Nguyễn Thị Ngọc 10269781
6. Lê Thị Kim Oanh 10229191 7.Nguyễn Thị Bích Phượng 10249281 8.Nguyễn Thị Thanh Tâm 10212771 9.Đặng Thị Kim Thanh 10279751 10.Nguyễn Văn Thắng 10243151
11.Lê Hoàng Sơn 10255001
12.Lê Trì Thanh Trúc 10371951
Môn học: Những nguyên lí cơ bản cùa chủ nghĩa Mác Lênin
Mã lớp HP: 211200719
GVHD: Nguyễn Lâm Thanh Hoàng
LỜI CẢM ƠN
&
Để hoàn thành bài tiểu luận này,nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn :
Ban Giám hiệu trường ĐH Công Nghiệp TP.HCM đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng em trong quá trình học tập.
Khoa lí luận chính trị , giảng viên Nguyễn Lâm Thanh Hoàng đã trang bị những kiến thức chuyên môn, tận tình hướng dẫn giúp đỡ chúng em và tạo cơ hội được thể hiện khả năng làm việc theo nhóm, phát huy tinh thần đoàn kết, tìm ra những phương pháp học có hiệu quả, giúp cho mộn học trở nên thú vị hơn.
TP.HCM, ngày 4 tháng 11 năm 2010
Nhóm G.STAR
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
&
Trong thời đại ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một tất yếu khách quan, và là xu thế của thời đại, có tác động mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới. Đến nay, trên thế giới đã có đến hàng trăm hình thức tổ chức liên chính phủ và hàng nghìn hình thức tổ chức phi chính phủ hoạt động trong hầu hết tất cả các lĩnh vực kinh tế-chính trị-xã hội. Trong đó, có những tổ chức
kinh tế và thương mại quốc tế và các tổ chức liên kết kinh tế và thương mại đặc thù theo khu vực như khu mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR), tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD),…và đỉnh cao của sự hội nhập trong lĩnh vực kinh tế và thương mại thế giới là sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Hội nhập là một xu hướng đã xuất hiện từ rất lâu mà tiên phong là trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Tham gia thương mại quốc tế sẽ đem lại lợi ích cho các quốc gia. Đây là điều không phải đến bây giờ các quốc gia mới nhận thấy mà nó đã được các nhà kinh tế học từ thế kỷ XVIII nghiên cứu và chứng minh. Nó càng được khẳng định khi các lý thuyết thương mại quốc tế lần lượt ra đời, từ các lý thuyết cổ điển và tân cổ điển như: “Lợi thế tuyệt đối” của Adam Smith, lý thuyết “Lợi thế so sánh” của David Ricardo, lý thuyết “Tỷ lệ các yếu tố” của Eli Heckcher và Berti Ohlin đến các lý thuyết hiện đại như: lý thuyết “Lợi thế cạnh tranh quốc gia ” và “Lý thuyết chuỗi giá trị” của Micheal Porter, lý thuyết “Vòng đờ sản phẩm” của Vernon,… Là một quốc gia có nền kinh tế ở trình độ thấp nhưng Việt Nam cũng đã xác định hội nhập là con đường duy nhất để Việt Nam theo kịp thời đại, điều này đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng định ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986). Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với trên 200 quốc gia, là thành viên của ASEAN, APEC, ASEM, ký hiệp định thương mại với nhiều nước trên thế giới trong đó có Mỹ và đang chuẩn bị cho một sự kiện quan trọng là gia nhập WTO. WTO là tổ chức thương mại thế giới. Từ khi ra đời nó đã không ngừng lớn mạnh và có sự tác
động rất lớn đến nền kinh tế thế giới. WTO hiện có 150 quốc gia thành viên. Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập WTO vào tháng 1/1995 và hiện đang là 1 trong 24 thành viên quan sát của WTO. Việt Nam sẽ trở thành thành viên của WTO khi chấp nhận các điều kiện của WTO qua các cuộc đàm phán đa phương và kết thúc đàm phán song phương với các thành viên có quan tâm đến việc gia nhập thị trường hàng hoá, dịch vụ. Qua các hiệp định thương mại song phương của Việt Nam với Hoa Kỳ, Việt Nam đã chấp nhận những nguyên tắc của WTO như MFN, NT,… Trong hiệp định BTA, Việt Nam cũng đã cam kết Các hiệp định và thoả thuận của WTO, chứa đựng một hệ thống quy định bao trùm toàn bộ các lĩnh vực kinh tế – thương mại quốc tế, từ hàng hoá, dịch vụ đến quyền sở hữu trí tuệ. Chúng là những nguyên lý của sự tự do hoá và những cam kết được chấp nhận. Những cam kết của các quốc gia thành viên trong việc thực hiện giảm thuế hải quan và những rào cản thương mại khác nhằm mở ra và giữ một thị trường mở. Nó cũng đưa ra phương thức đối sử đặc biệt đối với những quốc gia đang phát triển.
Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực không ngừng nhằm thúc đẩy tiến trình gia nhập WTO đặc biệt là trong năm vừa qua năm 2005 cùng với mục tiêu gia nhập WTO vào cuối năm 2005. Trong năm 2005, đã có rất nhiều tác phẩm được xuất bản thành sách hay được đăng lên các tạp chí về tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam, những nỗ lực của Việt Nam cùng với những thách thức đặt ra và luôn không ngừng hy vọng rằng Việt Nam sẽ được đứng trong danh sách số thành viên chính thức của WTO trước khi bước sang năm 2006. Tuy nhiên đến tháng3/2006 Việt Nam vẫn chưa trở thành thành viên chính thức của WTO. Đây là một vấn đề nóng hổi được toàn quốc quan tâm vì nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nước ta trong tương lai. Trước thực trạng đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Tiến trình gia nhập WTO,cơ hội và những thách thức đặt ra đối với Việt Nam khi gia nhập WTO” để làm đề tài nghiên cứu khoa học với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp chung của đất nước. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Phân tích, đánh giá thực trạng tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam. Từ đó tìm ra những nguyên nhân khiến Việt Nam chưa thể gia nhập WTO, những thách thức đặt ra đối với Việt Nam trong thời gian tới, qua đó kiến nghị những giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO và đối phó với những thách thức đặt ra khi Việt Nam gia nhập WTO.
Đối tượng nghiên cứu: thương mại quốc tế của Việt Nam, và kết quả hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Tổng hợp, phân tích thống kê số liệu hệ thống chính sách, môi trường kinh tế. Trên cơ sở tổng hợp các vấn đề kinh tế vĩ mô và dựa trên số liệu thống kê thực tế, kết hợp với kinh nghiệm của các nước để phân tích mối quan hệ nhân quả giữa các chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam, và tác động của nó tới môi trường kinh doanh trong nước và tiến trình gia nhập WTO. Phạm vi nghiên cứu: các chính sách liên quan tới quá trình gia nhập WTO của Việt Nam và sử dụng số liệu chủ yếu trong giai đoạn từ sau khi bắt đầu quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam cuối năm 1986.
Với trình độ và khả năng hiểu biết của mình còn hạn chế, chúng em xin trình bày đề tài: Tiến trình Việt Nam gia nhập WTO cùng những cơ hội và thách thức.
NỘI DUNG TIỂU LUẬN
&
I.Tổng quan WTO
1. Chức năng-mục tiêu của WTO
1.1. Chức năng
Tiền thân của tổ chức thương mại thế giới (WTO) là GATT-Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại được thành lập năm 1947.
Ngày 1-1-1995, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) chính thức ra đời theo Hiệp định thành lập tổ chức này ký tại Marrakesh (Marốc) ngày 15-4-1994 để thay thế cho Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Đến nay, số thành viên của WTO đã lên tới 148, trong đó có 2/3 là các nước đang và kém phát triển. Hiện nay còn một số nước đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO như Nga, Lào, Ucraina…
Theo như Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO, tổ chức này có năm chức năng cơ bản như sau:
Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thỏa thuận thương mại đa phương và nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành viên thực hiện nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ.
Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa phương.
Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hóa thương mại và tuân thủ các quy định của WTO.
Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) trong việc hoạch định những chính sách và dụ báo về xu hướng phát triển tương lai của nèn kinh tế toàn cầu.
1.2.Mục tiêu
Với tư cách là một tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới, WTO thừa nhận các mục tiêu của GATT trong đó có 3 mục tiêu chính như sau:
Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hóa và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường.
Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; bảo đảm cho các nước đang phát triển đặc biệt là các nước kém phát triển được hưởng những lợi ích thực chất từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế.
Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành viên, đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động đối thiểu.
2.Các nguyên tắc cơ bản của WTO
Hội nghị Bộ trưởng họp ít nhất một lần trong 2 năm. WTO thông qua các quyết định bằng sự đồng thuận, không bỏ phiếu kín. Một số trường hợp cần bỏ phiếu: Sửa đổi một số nguyên tắc nền tảng như nguyên tắc tối huệ quốc , nguyên tắc đãi ngộ quốc gia.
WTO được xây dựng trên cơ sở 5 nguyên tắc cơ bản:
(1) thương mại không phân biệt đối xử;
(2) thương mại ngày càng được tự do hơn thông qua đàm phán;
(3) dễ dự đoán, dự báo;
(4) tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng;
(5) dành cho các nước đang phát triển một số ưu đãi.
WTO xây dựng một hệ thống các qui định vô cùng phức tạp và cụ thể trên 4 lĩnh vực: thương mại hàng hóa; dịch vụ; đầu tư và sở hữu trí tuệ.
Đối với nông nghiệp, có một số Hiệp định chủ yếu của WTO liên quan đến nông nghiệp như: Hiệp định nông nghiệp (Agreement on Agriculture - AoA); Hiệp định áp dụng các biện pháp vệ sinh kiểm dịch động thực vật (Sanitary and Phitosanitary Agreement - SPS); Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (Technical Barries to Trade - TBT). Ngoài ra có các hợp phần khác của thương mại nông sản trong các Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS
II.Quá trình Việt Nam gia nhập WTO
1.Việt Nam trước khi gia nhập
Có lẽ trước khi bàn đến hiện tại,chúng ta cũng nên nhìn lại quá trình phát triền của Việt Nam trước khi gia nhập vào tổ chức thương mại tố chức thế giới -WTO,để từ đó có một cái nhìn toàn diện, đầy đủ và sâu sắc về tình hình đất nước ta.
Thực hiện đường lối của Đảng,chúng ta đã phát triển mạnh quan hệ toàn diện và mở cửa buôn bán biên giới với Trung Quốc, gia nhập hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), tham gia hiệp định mậu dịch tự do ASEAN, diễn đàn kinh tế-Thái Bình Dương(APEC); là sáng lập viên Diễn đàn hợp tác Á-Âu(ASEM).Cùng với các nước ASEAN kí kết hiệp định mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc.ASEAN-HÀn Quốc,ASEAN-Ấn Độ,ASEAN-Úc và New Zealand. KÍ hiệp định thương mại song phương với Hoa Kì(BTA).Đây là những bước đi quan trọng trong quá trình hội nhập.
Thực tiễn những năm qua chỉ rõ:khi mở cửa thị trường,lúc đầu chúng ta còn gặp nhiều khó khăn.Mở cửa buôn bán với Trung Quốc,hàn hóa nước bạn tràn vào đẩy doanh nghiệp nước ta vào thế bị động,một số ngành sẩn xuất “lao đao”,một số doanh nghiệp phải giải thể.Tuy nhiên với thời gian các doanh nghiệp nước ta đã vươn lên trụ vững và đã có bước phát triển mới.
Nhiều doanh nghiệp đã đổi mới sản xuất,cải tiến kiểu dáng,mẫu mã,nâng cao chất lượng sản phẩm,nhờ đó mà tăng được sức cạnh tranh,phát triển được sản xuất,mở rộng thị trường.
Thực hiện theo cam kết “hiệp định mậu dịch tự do ASEAN”,chúng ta đã loại bỏ được hàn rào phi thuế quan,gaimr thuế nhập khẩu.Đến năm 2006,có 10283 dòng thuế chiếm 99,43% .Biểu thuế nhập khẩu ASEAN có thuế xuất chỉ ở mức 0-5%,nhưng các ngành sản xuất của ta vẫn phát triển với tốc độ cao.Trong nhiều năm qua,sản xuất nông nghiệp tăng trung bình 15-16%/năm,kim ngạch xuất khẩu tăng trung bình trên 20%/năm là nhân tố quan trọng đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao và lien tục ,tạo thêm nhiều công ăn việc làm.Điều đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng lâu dài là tiến trình đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế ,đã từng bước xuất hiện lớp cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn cao,thong thạo ngoại ngữ.Hiện nay đã có một đội ngũ những nhà doanh nghiệp mới,có kiến thức,năng động và tự tin,dám chấp nhận mạo hiểm,dám đối đầu cạnh tranh.Đây là nguồn lực quí báu cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Trong hoàn cảnh đó,Đảng và Nhà Nước ta đã nghĩ đến một “côn đường mới-con đường vào Tổ chức thương mại thế giới WTO”_báo hiệu mở ra một thời kì mới cho nền kinh tế VN nói riêng vaf cho toàn bộ xã hội VN nói chung.
2.Sự cần thiết phải gia nhập WTO
Nếu tham gia WTO Việt Nam sẽ có cơ hội đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế,bắt đầu nhịp độ của các nước đã tham gia trước đó. Điều này sẽ đưa nước ta thoát khoi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. Một con người sẽ không thể phát triển nếu cứ ờ mải trong vòng tay mẹ mà không ra tiếp xúc, rèn luyện với thế giới ben ngoài. “Đi một ngày đàn học một sàn khôn”.Cơ hôi được học hỏi, cọ xát và phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn.Vì vậy, việc gia nhập WTO là cần thiết là tất yếu.Trên cơ sở đó, sau gần 10 năm đổi mới, tháng 1/1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO.
3.Quá trình kí kết
Trên cơ sở sau gần 10 năm đổi mới,tháng 1-1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Ban Công tác xem xét việc gia nhập của Việt Nam được thành lập với Chủ tịch là ông Eirik Glenne, Đại sứ Na Uy tại WTO (riêng từ 1998–2004, Chủ tịch là ông Seung Ho, Hàn Quốc),bắt đầu “mở một con đường” đưa nước ta tiến vào hội nhập thế giới.
8-1996: Việt Nam nộp “Bị vong lục về chính sách thương mại”( 1996: Bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA)
1998 - 2000: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về Minh bạch hóa các chính sách thương mại vào tháng 7-1998, 12-1998, 7-1999, và 11-2000. Kết thúc 4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị trường.
7-2000: ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ
12-2001: BTA có hiệu lực
4-2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác. Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến hành đàm phán song phương.
2002 – 2006: Đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu đàm phán, với 2 mốc quan trọng:
10-2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất
5-2006: Kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ - đối tác cuối cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.
26-10-2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, Ban Công tác chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã có 14 phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006.
“Trồng cây cũng có ngày hái quả”.cuối cùng vào ngày 7-11-2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO.
III.Cơ hội –thách thức
Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có cả những thời cơ và thách thức đan xen.Mỗi người dân, đặc biệt là các doanh nghiệp cần phải nhận thức rõ những thuận lợi và khó khăn để nắm bắt thời cơ và vượt qua thách thức.
1.Cơ hội
Nước ta có lợi thế cơ bản là dân số đông, hơn 80 triệu người, đứng thứ 13 thế giới, lao động hơn 40 triệu người, lao động trẻ có văn hoá hơn 30 triệu người. Việt Nam có vị trí thuận lợi cả trên bộ, trên biển, hàng không, là điều kiện cho phát triển thương mại sau này. Việt Nam có điều kiện thuận lợi nữa là chúng ta ổn định về chính trị nhất trong khu vực. Đây là những lợi thế cho phép và chúng ta cần phải tranh thủ phát huy trong môi trường kinh tế toàn cầu. Đặc biệt là sử dụng lao động, khi lao động nông nghiệp, nông thôn của nước ta đang thiếu việc làm.Tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới, nước ta đứng trước những cơ hội lớn như sau:
Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước m ở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai - với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ba là: Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quản lý điều hành của ta.
Bốn là: Mặc dầu chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
Thực tế:
Về nhịp độ tăng trưởng GDP, nền kinh tế của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2007 đã tăng trưởng cao hơn dự đoán với nhịp độ tăng trưởng GDP ở mức 7,9%. Nhịp độ tăng trưởng CLĐP trong quý III năm 2007 ước tính khoảng 8,93% và cả năm 2007 dừ kiến sẽ vào khoảng 8,3% đến 8,5%, đây là mức tăng trưởng GDP cao nhất trong 10 năm qua. Điều đáng nói ở đây là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nửa đầu năm 2007 phần lớn do tăng trưởng từ sản xuất công nghiệp (tăng 12,4%), thương mại, dịch vụ (dịch vụ thương mại và tài chính tăng 10,4%, khách sạn và nhà hàng tăng 12,7% do tiêu dùng và du lịch tăng cao) và sự phát triển của khu vực tư nhân (tăng trưởng của khu vực tư nhân là 20,5% gần gấp đôi khu vực nhà nước). Điều này cho thấy, sau khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển đúng hướng với việc dựa vào tăng trưởng ở các ngành quan trọng là công nghiệp và thương mại, dịch vụ. Do đó, cơ cấu kinh tế đã dịch chuyển theo hướng tích cực: tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành công nghiệp – xây dựng đã được nâng cao từ 41,31% lên 41,48%, của nhóm ngành dịch vụ đã nâng cao từ 38,25% lên 38,44% và của ngành nông, lâm, thủy sản đã giảm từ 20,45% xuống còn 20,08%. Thêm vào đó, một tín hiệu đáng mừng cho thấy hiệu quả của việc cải cách chính sách theo hướng không