Tiểu luận Quan điểm về con người trong triết học tây âu thời kỳ phục hưng và cận đại

Cùng với sự tìm h iểu tự nhiên và cuộc sống xã hộ i, kể từ kh i loài người ra đ ời, một vấn đề luôn được đặt ra là tìm h iểu ch ính bản thân mình. Ngay từ thời kỳ tiền triết học, vấn đề này đã được đề cập qua các tôn giáo nguyên thủy, các truyền thuyết, thần thoại, sử thi, anh hùng ca và việc thờ cúng tổ tiên . Đó là những quan niệm còn mang nặng tính thần bí, siêu hình. Triết học Hy Lạp cổ đại xu ất hiện vào thế kỷ VI Trước Công Nguyên đã đánh dấu bước phát triển mới của tư tưởng con người, từ cảm nhận vũ trụ trực quan đ ến thế giới quan mang tính khá i quát, trừu tượng của tư duy. Các trường phá i triết học Hy Lạp giai đoạn này có nh iều quan điểm khác nhau, song đều rất quan tâm đến bản chất, nguồn gốc của thế giới, vạn vật và con ng ười. Bước vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ, các nhà triết học quan tâ m nhiều hơn đến vấn đề s inh vật, con người và linh hồn con người. Vào thế kỷ VII và VI TCN, phái duy vật sơ khai cho rằng con người là một bộ ph ận của tự nh iên, hòa đồng với tự nh iên và vũ trụ. Bên cạnh đó, trường phái Pytago mở đầu cho khuynh hướng triết học duy tâm Hy Lạp cổ đại, quan n iệm rằng linh hồn con người là bất tử, ch ỉ tạm trú trong cơ thể các sinh vật và con người. Còn các nhà nguyên tử lu ận thì lại cho rằng sự sống không phải do thần thánh tạo ra mà cấu tạo từ nguyên tử và linh hồn cũng mang tính vật chất. Điểm qua các quan điểm của Xôcrát, Platôn, tác g iả khẳng đ ịnh triết học Hy Lạp đạt tới đỉnh cao nhất ở thời Arixtốt. Ông khẳng định “linh hồn là bản nguyên của cơ thể sống., của vận động”.

pdf12 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 5070 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan điểm về con người trong triết học tây âu thời kỳ phục hưng và cận đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI 1 A. LỜI MỞ ĐẦU Cùng với sự tìm h iểu tự nhiên và cuộc sống xã hội, kể từ khi loài người ra đời, một vấn đề luôn được đặt ra là tìm hiểu chính bản thân mình. Ngay từ thời kỳ tiền triết học, vấn đề này đã được đề cập qua các tôn giáo nguyên thủy, các truyền thuyết, thần thoại, sử thi, anh hùng ca và việc thờ cúng tổ tiên. Đó là những quan niệm còn mang nặng tính thần bí, siêu hình. Triết học Hy Lạp cổ đại xuất hiện vào thế kỷ VI Trước Công Nguyên đã đánh dấu bước phát triển mới của tư tưởng con người, từ cảm nhận vũ trụ trực quan đến thế giới quan mang t ính khái quát, trừu tượng của tư duy. Các trường phái triết học Hy Lạp giai đoạn này có nhiều quan điểm khác nhau, song đều rất quan tâm đến bản chất, nguồn gốc của thế giới, vạn vật và con ng ười. Bước vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ, các nhà triết học quan tâm nhiều hơn đến vấn đề s inh vật, con người và linh hồn con người. Vào thế kỷ VII và VI TCN, phái duy vật sơ khai cho rằng con người là một bộ phận của tự nhiên, hòa đồng với tự nhiên và vũ trụ. Bên cạnh đó, trường phái Pytago mở đầu cho khuynh hướng triết học duy tâm Hy Lạp cổ đại, quan niệm rằng linh hồn con người là bất tử, chỉ tạm trú trong cơ thể các sinh vật và con người. Còn các nhà nguyên tử luận thì lại cho rằng sự sống không phải do thần thánh tạo ra mà cấu tạo từ nguyên tử và linh hồn cũng mang tính vật chất. Điểm qua các quan điểm của Xôcrát, Platôn, tác giả khẳng định triết học Hy Lạp đạt tới đỉnh cao nhất ở thời Arixtốt. Ông khẳng định “linh hồn là bản nguyên của cơ thể sống..., của vận động”. Bước sang thời kỳ thứ hai, đặc điểm nổi bật cần phải chú ý đó là sự hình thành của một tôn giáo mới: Cơ đốc giáo và trở thành quốc giáo ngay trong thời kỳ đế quốc La mã. Về cơ bản, hệ thống quan điểm triết học của Cơ đốc giáo về con người tập trung nói về sự sáng tạo ra thế 2 giới của đức Chúa Trời, về tội tổ tông của con người, sự chuộc tội, sự chăn dắt của Chúa đối với con người, sự phục sinh sau khi chết ở thế giới bên kia. Cần phải nhắc đến hai tên tuổi mở đầu cho thời kỳ từ Phục hưng đến thời kỳ cận đại là Ni-cô-lai Kuzan và Ni-cô-lai Cô-péc-ních. Kuzan là người đầu tiên kịch liệt phê phán giáo lý thời Trung cổ, mở đầu cho thời kỳ Phục hưng . Con người - theo ông - là sản phẩm tối cao và tinh túy nhất trong sự sáng tạo của Thượng đế - Con người (Deus - Human). Nối tiếp Kuzan, Cô-péc-ních đã làm đảo lộn hoàn toàn nhận thức đương thời bằng thuyết nhật tâm. Vào thế kỷ XIV - XV, các nhà nhân văn chủ nghĩa Ý đã làm đảo lộn vũ trụ quan và nhân s inh quan của Ki tô giáo: con người không lấy Thượng đế mà là chính mình làm trung tâm và thước đo của tất cả mọi vật. Bước vào thế kỷ XVI, những nhà tư tưởng tiến bộ mong muốn xây dựng một xã hội mới phồn vinh, thịnh vượng, đem lại hạnh phúc cho tất cả mọi người. Tuy vẫn chỉ là những quan niệm mang tính chất không tưởng nhưng những tư tưởng này đã mang đậm tính chất nhân văn sâu sắc. 3 B. NỘI D UNG I. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘ I VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜ I KÌ PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI I.1. Điều kiện kinh tế - xã hội Thời kì Phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản (thế kỷ XV - VI), bắt đầu hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tính chất quá độ đó biểu hiện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá tư tưởng thời kì này. Về kinh tế: Bắt đầu từ thế kỉ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc Trung cổ đã bước vào thời kì tan rã. Nhiều công trường thủ công xuất hiện, ban đầu ở Italia, sau đó lan sang Anh, Pháp và các nước khác, thay thế cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển. Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa thúc đẩy sự phát triển của khoa học, kĩ thuật. Nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện. Với việc sáng chế ra máy kéo sợi và máy in đã làm cho công nghiệp dệt, công ngh ệ ấn loát đặc biệt phát triển, nhất là ở Anh. Sự khám phá và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã giúp cho con người có thể sản xuất có kế hoạch, tiết kiệm thời gian và tăng năng suất lao động. Những phát kiến về đường biển, tìm ra những miền đất mới, phát hiện ra châu Mỹ... càng tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa. Thương mại, thị trường trao đổi hàng hoá giữa các nước được mở rộng; giao lưu quốc tế được tăng cường, nh ờ đó mà các nước phát triển sớm như Anh, Pháp, Tây Ban Nha... thi nhau xâm chiếm thuộc địa để mở rộng việc khai thác thiên nhiên và thị trường tiêu thụ hàng hoá. Về xã hội: Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã hội Tây Âu thời kì này, sự phân hoá giai cấp ngày càng 4 rõ rệt. Tầng lớp tư sản xuất hiện gồm các chủ xưởng công trường thủ công, xưởng thợ, thuyền buôn... Vai trò và vị trí của họ t rong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân từ nông thôn di cư ra thành thị, trở thành người làm thuê cho các công trường, xưởng thợ. Họ tham gia vào lực lượng lao động xã hội mới, làm hình thành giai cấp công nhân. Các tầng lớp xã hội trên đại diện cho một nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến đang suy tàn. Về văn hoá, tư tưởng: Cùng với sự phát triển về kinh tế và xã hội, khoa học kĩ thuật và tư tưởng thời kì Phục hưng cũng đạt được sự phát triển mạnh mẽ. Các nhà tư tưởng thời Phục hưng đã phê phán mạnh mẽ các giáo lý Trung cổ. Mở đầu là nhà triết học người phía Nam nước Đức, Nicôlai Kuzan (1401-1464). Tiếp đó là các nhà kho a học - triết học như Nicôlai Côpecnich (1475-1543) người Ba Lan; Lêôna đơ Vanhxi (1452- 1519) - nhà danh hoạ, nhà toán học, cơ học, kĩ sư người Italia; Gioocđanô Brunô (1548-1600) người Italia; Galilêô Galilê (1564-1642) người Italia. Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến nhận thức duy vật về thế giới, nổi trội hơn cả là thuyết nhật tâm của Nicôlai Côpecnich (1475-1543), nhà bác học vĩ đại người Ba Lan. Nicôlai Côpecnich đã đứng trên lập trường của triết học duy vật để bác bỏ thuyết địa tâm do Ptôlêmê (người Hy Lạp) đề xuất từ thế kỷ thứ II, một giả thuyết sai lầm coi quả đất là trung tâm của hệ mặt trời và vũ trụ. Thuyết nhật tâm của Nicôlai Côpecnich đã giáng một đòn nặng nề vào thế giới quan tôn giáo, thần học. Giả thuyết của ông là một cuộc cách mạng trên trời, báo trước một cuộc cách mạng trong lĩnh vực các quan hệ xã hội sắp xảy ra. Trong thời đại Phục hưng , các nhà tư tưởng tư sản đã bênh vực triết học duy vật, vận dụng nó để chống lại chủ nghĩa kinh viện và thần học Trung cổ. Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật chống chủ nghĩa duy tâm thường được biểu hiện dưới hình thức đặc thù là khoa học chống tôn 5 giáo, tri thức thực nghiệm đối lập với những lập luận kinh viện. Cuối cùng, sự chuyên chính của giáo hội và s ự thống trị của chủ nghĩa kinh viện Trung cổ đã không ngăn được sự phát triển bước đầu của khoa học thực nghiệm và triết học duy vật - tiền đề cho những thành tựu mới và những đặc điểm mới của triết học trong các thế kỷ tiếp theo. Thời kì cận đại là thời kì phát triển rực rỡ của Tây Âu trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Đó là sự phát triển tiếp tục của chủ nghĩa tư bản, của khoa học và tư tưởng, trong đó có chủ nghĩa duy vật triết học, nhưng với những đặc điểm mới. Khác với thời kì Phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các nước Tây Âu là thời kì giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về chính t rị trước giai cấp phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã nổ ra và thành công: Cách mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI ; Cách mạng tư sản Anh (1642-1648); Cách mạng tư sản Pháp (1789-1794). Đây cũng là thời kì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị Tây Âu. Nó tạo đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kĩ thuật phát triển mà trước hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt tới trình độ là cơ sở cổ điển. Đặc điểm của khoa học tự nhiên thời kì này là khoa học tự nhiên - thực nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận thức trong sự trừu tượng tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển, nếu có nói đến vận động thì chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho triết học duy vật thời kỳ này mang nặng tính máy móc siêu hình. I.2. Đặc điểm của triết học Tây Âu thời Phục hưng và Cận đại Chính những điều kiện kinh tế - chính t rị và khoa học tự nhiên thời cận đại đã quy định những đặc trưng về mặt triết học thời kì này: Thứ nhất, đây là thời kì thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa duy tâm, của những tư tưởng vô thần đối với hữu thần luận. 6 Thứ hai, chủ nghĩa duy vật thời kì này mang hình thức của chủ nghĩa duy vật siêu hình , máy móc. Phương pháp siêu hình thống trị, phổ biến trong lĩnh vực tư duy triết học và khoa học. Thứ ba, đây là thời kì xuất hiện những quan điểm triết học tiến bộ về lĩnh vực xã hội, nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải thích xã hội và lịch sử. Những đặc điểm ấy thể hiện rõ nét trong quan niệm của một số triết gia, điển hình như B.Xpinôda, Ph.Bêcơn. T.Hôpxơ, R.Đêcactơ, G.Lamettri, Đ.Điđơrô, P.Hônbách, G.G.Rutxô. Thứ tư, trước sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng duy vật vô thần của thời cận đ ại, chủ nghĩa duy tâm và thần học buộc phải có những cải cách nhất định. Nhu cầu ấy được phản ánh đặc biệt trong triết học duy tâm chủ quan của nhà triết học thần học người Anh G.Beccơli. II. QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌ C THỜI KÌ PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI QUA MỘ T SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU II.1. Phranxis Bêcơn (1561-1621) Phranxis Bêcơn (Francis Bacon) là nhà triết học vĩ đại thời cận đại. C.Mác coi Ph.Bêcơn là ông tổ của chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực nghiệm. Bắt đầu từ Ph.Bêcơn, lịch sử triết học Tây Âu bước sang một giai đoạn phát triển mới với những màu sắc riêng. Ph.Bêcơn coi con người là sản phẩm cuả tạo hoá, do vậy khoa học về con người cũng là khoa học về tự nhiên. Tiếp thu quan niệm của Arixtốt về con người, Ph.Bêcơn chia linh hồn thành các dạng "linh hồn thực vật", "linh hồn động vật", "linh hồn lý tính". Hai phần đầu thuộc về linh hồn cảm tính, có cả ở thực vật và động vật. Trong con người, linh hồn cảm tính là một dạng chất lỏng , pha loãng trong cơ thể. Chúng vận động theo các dây thần kinh, tựa như các đường ống, tác động lên các giác quan, điều khiển chức năng sống của cơ thể. Bộ phận linh hồn này có thể bị huỷ hoại cùng cơ thể khi con người chết đi. Linh hồn lý tính có 7 nguồn gốc từ Thượng đế. Đó là một khả năng kì diệu mà chúa đã ban cho con người, mang tính thần thánh. Vì con người có cả hai dạng linh hồn nên con người vừa rất gần với động vật lại vừa có cái gì đó siêu phàm, và do đó, bản chất con người không cho phép con người theo lập trường hoàn toàn vô thần. Con người cần có tôn giáo để vượt qua những lúc con người mềm yếu, bất lực. Tôn giáo mang lại cho con người niềm tin nhưng nhà thờ không được phép dùng các biện pháp chống lại các nhà vô thần, không được cản trở các hoạt động khoa học, nghệ thuật của con người. Nhìn chung, quan niệm trên của Ph.Bêcơn thể hiện sự thoả hiệp giai cấp tư sản Anh thời đó với các vấn đề tôn giáo. II.2. Tômát Hôpxơ (1588-1679) Tômát Hôpxơ (Thomas Hobbs) là nhà triết học nổi tiếng, đại biểu của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII, người có công cụ thể hoá và phát triển nh iều quan niệm duy vật của Ph.Bêcơn. Theo T.Hôpxơ, vấn đề trung tâm của triết học là vấn đề con người. Các tác phẩm Về con người (1658), Về người công dân (1642)...của ông đều bàn về vấn đề này. Từ việc coi con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể đạo đức và tinh thần, ông chia triết học thành triết học tự nh iên và triết học đạo đức, hay còn gọi là triết học xã hội. Con người, theo T.Hôp xơ là một thực thể thống nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội. Về bản tính tự nhiên, mọi người khi sinh ra đều như nhau, sự khác nhau nhất định giữa họ không lớn. Nhưng con người ai cũng có khát vọng và nhu cầu riêng của mình. Đây là tiền đề để con người làm điều ác. Mỗi người đều ích kỉ, vì lợi ích riêng của mình mà có thể chà đạp tất cả. "Con người là một động vật độc ác và ranh ma hơn cả chó sói, gấu và rắn". Mỗi người hành động trước tiên là "vì tính ích kỉ yêu bản thân mình chứ không phải vì xã hội, không phải vì lợi ích của người khác". Vì thế mà đẩy loài người đến chiến tranh liên miên, gây ra bao nhiêu đau khổ và chết chóc. Công lý và khoa học về pháp quyền, bởi 8 vậy, luôn luôn bị bác bỏ bởi những ngòi bút và thanh kiếm. Theo T.Hôpxơ, bản tính tự nhiên của con người đó là tính ích kỉ; trạng thái xã hội mà con người sống là "một cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả". Tuy nhiên, theo T.Hôp xơ, "trạng thái tự nhiên" trên đây của con người ngày nay không còn nữa; nó tồn tại một cách trọn vẹn ở thời nguyên thuỷ xa xưa. Tư tưởng của T.Hôp xơ được Đácuyn áp dụng vào thế giới động vật và phát hiện ra quy luật đấu tranh sinh tồn và chọn lọc tự nhiên của các loài sinh vật. Sau đó những người theo chủ nghĩa Đácuyn xã hội truyền bá, áp dụng trở lại xã hội. Quam niệm của T.Hôp xơ mặc dù chưa đánh giá đúng mức đặc trưng riêng của loài người so với loài vật, chưa thấy được bản tính xã hội, tính nhân loại của con người, nhưng nó mang những yếu tố hợp lý nhất định : Một mặt, nó cho thấy sự tương đồng nào đó giữa loài người và loài vật, mặt khác, nó chỉ ra rằng, chính lợi ích của các cá nhân là một trong những động lực trực tiếp của hoạt động của con người và phát triển của xã hội. II.3. Rơnê Đêcáctơ (1596-1654) Rơnê Đêcáctơ (Rene Descartes) là nhà triết học, nhà bách khoa toàn thư vĩ đại người Pháp. Có thể nói, cùng với Ph.Bêcơn, "Đêcáctơ đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học" Tây Âu cận đại. Ông khẳng định, con người được cấu thành từ linh hồn và thể xác. Theo quan điểm nhị nguyên luận, ông hoàn toàn tách b iệt thể xác và linh hồn, coi chúng có nguồn gốc từ hai thực thể tư duy và quảng tính hoàn toàn tách biệt. Ông coi linh hồn con người là một thực thể mà bản chất của nó là tư duy, tồn tại không cần đến và không phụ thuộc vào bất kì một sự vật vật chất nào. Linh hồn là bất diệt, nó không bị phân huỷ khi con người chết. Con người có được là do Thượng đế ghép linh hồn vào 9 thể xác. Cơ thể con người là chỗ trú chân tạm thời của linh hồn khi anh ta sống. II.4. Giooc Beccơli (1685-1753) Giooc Beccơli (George berkeley) là nhà triết học nổi tiếng người Anh, đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Cũng như các nhà duy tâm khác, G.Beccơli quan niệm con người bao gồm linh hồn và thể xác; linh hồn là cái quyết định. Thể xác thuộc về các vật thể tự nhiên, tức các cảm giác. Do vậy, thể xác tồn tại được là nhờ linh hồn cảm nhận nó. Thể xác phải tuân theo cái gậy chỉ huy của linh hồn. Đối với linh hồn con người, G.Beccơli cho rằng , "tồn tại nghĩa là cảm nhận". Có nghĩa là linh hồn chỉ tồn tại khi nó cảm nhận các sự vật khác mà trước hết là cảm nhận thể xác của con người. II.5. Điđơrô và các nhà triết học Khai sáng Pháp thế kỉ XVIII Triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là một g iai đoạn phát triển quan trọng trong tiến trình phát triển tư tưởng triết học Tây Âu và thế giới. Triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là sự kế tục và phát triển mới về chất các khuynh hướng tư tưởng bài trừ siêu hình học thế kỉ XVII, cũng như đánh giá lại các giá trị tuyền thống. Nó bắt đầu từ việc phê phán không thương tiếc các quan niệm cũ về thế giới và con người. Chính vì vậy mà triết học Khai sáng Pháp có nội dung cơ bản là duy vật, tiến bộ, nó đề cập nhiều đến tiến bộ xã hội, tự do của con người... Cùng với sự hưng thịnh của văn hoá Pháp thời kì này, trên lĩnh vực tư tưởng có nhiều nhà khai sáng, họ vừa là các nhà triết học, vừa là những người uyên bác về nhiều lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, khoa học. Tiêu biểu là Sáclơ Đờ Môngtexkiơ (1689-1775), Phrăngxoa Mari Vônte (1694-1778), Giăng Giắc Rutxô (1712-1778), Đeni Điđrô (1713-1784), Giulen Ôphrơ Lamettri (1709-1751), Hônbách (1729-1789), Henvêtiúyt 10 (1715-1771)... Ở đây chỉ đề cập đến tư tưởng triết học của các nhà duy vật vô thần Pháp mà người giữ vai trò lãnh đạo là Đ.Điđrô. Đ.Điđrô cho rằng con người được cấu thành từ thể xác và linh hồn. Thể xác và linh hồn thống nhất hữu cơ với nhau. Linh hồn không có nguồn gốc từ chúa mà là một tổng thể các hiện tượng tâm lý. Bản thân nó cũng là đặc tính của vật chất. Ông viết: "Không có cơ thể con người thì nó (tức linh hồn) không là cái gì cả. Tôi khẳng định rằng, không có cơ thể con người thì không thể giải thích được cái gì cả". Ông nhấn mạnh, cơ thể con người là khí quan vật chất của tư duy, ý thức cũng như mọi quá trình tâm lý của anh ta. Ông đã nh ận thấy, nhân cách con người là sản phẩm của hoàn cảnh môi trường xung quanh nhưng chưa hiểu được rằng , bản thân môi trường và hoàn cảnh đó cũng là sản phẩm của hoạt động con người, và vì vậy, cả con người lẫn hoàn cảnh sống của nó đều mang t ính lịch sử. Đây cũng là hạn chế chung của các triết học trước Mác. 11 C. KẾT LUẬN Nhìn chung quan điểm về con người trong triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại còn có một số hạn chế cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng như phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người. Và những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện chứng của triết học Mác – Lênin về con người. \ Danh sách nhóm 3: NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG PHẠM HỒNG HẠNH TRƯƠNG ANH TUẤN DƯƠNG THỊ THU HƯƠNG TẠ THỊ HƯƠNG BOU SITHA PHẠM HỒNG TIẾN VÂN 12
Luận văn liên quan